Những ngày này 40 năm về trước, cả đất nước đang chìm trong khói lửa bom đạn kẻ thù, đặc biệt là vùng trời Hà Nội – Hải Phòng. Những tháng ngày đau thương và anh dũng ấy đã và mãi mãi là dấu son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc. Muốn viết gì đó để kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” và 68 năm ngày thành lập QĐNDVN nhưng thấy Thiếu Long Texas đã có một bài viết phân tích về sự kiện lịch sử này rất công phu và chính xác nên mang về đây giới thiệu với các bạn. Âu cũng là góp phần giới thiệu những cái nhìn đúng đắn – khách quan – hay – đẹp về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. “Thiếu Long Texas” là một blogger sống và làm việc tại Hoa Kỳ (có lẽ là tại Texas), tuy còn trẻ nhưng anh đã có bề dày nghiên cứu các vấn đề về lịch sử nước nhà và thường xuyên có những bài viết chất lượng trên các diễn đàn, blog của mình, với một tâm huyết chỉ có ở những người yêu nước chân chính. Thật thú vị, cùng với AmariTX, một blogger chuyên viết bài vạch trần bộ mặt thật của đám “cờ vàng – rận ngoại”, bộ đôi cùng mang nick có từ Texas này đang như hai chàng cao bồi, rong ruổi trong thế giới internet để chiến đấu chống lại cái sai trái và bảo vệ lẽ phải. Mời các bạn xem bài (hơi dài nhưng rất chất!).

Tượng đài kỷ niệm chiến thắng “Điện biên phủ trên không” trong bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam
Hùng ca Điện Biên Phủ trên không và những thế cờ chiến lược

Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, cả Việt Nam và thế giới đã chứng kiến kỳ tích thời đại Hồ Chí Minh: Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Trong lịch sử chiến tranh giữ nước thời hiện đại, dân tộc Việt Nam luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược có nền kinh tế và quân sự phát triển cao hơn, có khoa học kỹ thuật và công nghệ cao hơn, có thế và lực mạnh hơn gấp nhiều lần, và trận quyết chiến Điện Biên Phủ trên không, chống lại chiến dịch Linebacker II của không quân Hoa Kỳ cũng không ngoại lệ.

Song lực lượng phòng không nhân dân của Việt Nam đã đánh bại chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh điện tử quy mô lớn của Mỹ. Chiến thắng này đã đi vào lịch sử Việt Nam như một “Điện Biên Phủ trên không”. Hà Nội sau ngày đó đầy ắp tiếng cười, đã trở thành “Thành phố vì hòa bình” trong lòng bè bạn năm châu.

Từ trước đến nay đa số bạn đọc Việt Nam và quốc tế chỉ biết Điện Biên Phủ trên không như một trận đại thắng chói lọi, một bản hùng ca vang dội của quân dân Hà Nội và miền Bắc Việt Nam, nói lên ý chí quật cường của dân tộc. Còn bản chất chính trị, những vấn đề hậu trường, những nước cờ chính trị đầy bản lĩnh và trí tuệ, ý nghĩa thực chất, tính chất chính trị của nó, những gì phía sau nó thì các tài liệu giáo khoa, các giáo trình lịch sử công khai, các tuyên bố chính thức, các thông cáo báo chí từ cả hai phía Việt – Mỹ và quốc tế đều hiếm khi đề cập tới.

Phần lớn các tài liệu sách báo từ cả hai chiến tuyến đối địch và quốc tế đều chỉ tập trung miêu tả trận đánh và luận về khoa học kỹ thuật, về quân sự. Nghĩa là chỉ thấy phần “quân luận” chứ chưa có nhiều phần “chính luận” về Điện Biên Phủ trên không, và các vấn đề liên quan về cuộc chiến tranh Mỹ – Việt trong giai đoạn này.

Diễn biến chiến dịch và các trận chiến, các chiến thuật quân sự của hai bên đều đã được nhiều nơi ghi chép và phân tích tỉ mỉ, kỹ càng. Do đó người viết không đề cập tới những vấn đề mang tính chuyên môn quân sự đó trong bài tham luận này. Bài viết này chủ yếu phân tích về bản chất và các vấn đề chính trị, những vấn đề liên quan đằng sau và chung quanh Điện Biên Phủ trên không.

Khái quát sơ lược

Ngày 18 tháng 12 năm 1972, quân đội Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Linebacker II, nhằm tàn phá miền Bắc Việt Nam với trọng tâm chiến lược ở thủ đô Hà Nội. Ý đồ của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ là tấn công dồn dập bằng pháo đài bay chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật và mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt Nam.

Chiến dịch này còn được giới dân sự Mỹ gọi là “The December Raids” (Cuộc bắn phá tháng 12) hoặc là “The Christmas Bombings” (Dội bom lễ Giáng sinh), một số người còn ví von gọi là “The nightmare before Christmas” (Cơn ác mộng trước Giáng sinh). Tại Việt Nam, sự kiện này ban đầu được gọi giản dị là “cuộc chiến 12 ngày đêm”, ngay sau đó một số báo Pháp đưa tin về việc này, đã ví trận thắng này như trận thắng Điện Biên Phủ ở trên không trung. Từ đó khái niệm “Điện Biên Phủ trên không” được báo chí Việt Nam thấy hay nên sử dụng đến nay.

Ý định của Hoa Kỳ là sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm để hủy diệt thủ đô của Việt Nam và đưa chiến sự lan ra cả Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác ở Bắc Việt. Tổng thống Nixon của Mỹ tràn đầy tự tin vào sức mạnh không quân vô địch của Mỹ, đã nói: “Chúng ta sẽ đánh bom cho họ về thời kỳ đồ đá” (We’re going to bomb them back into the Stone Age). Ông ta còn cao giọng lạc quan, đại ý: Các bạn phi công chỉ cần bay đủ độ cao, hỏa lực địch bắn không tới, các bạn chỉ cần bay thật cao và ấn nút là đủ, đó là tất cả những gì các bạn cần làm, bay cao – bấm nút – rồi về nhà ăn Noel, đây sẽ là một chiến dịch dễ nhất trong binh nghiệp của các bạn.

Máy bay Mỹ bay cả đàn vào
không kích miền Bắc Việt Nam

Đây là một cuộc đụng đầu lịch sử giữa một bên là dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến, một thủ đô Thăng Long – Hà Nội bất khuất, ngạo nghễ, một bên là sức mạnh áp đảo bách chiến bách thắng của lực lượng không quân tinh nhuệ nhất hành tinh và với những máy bay chiến lược hiện đại, tối tân nhất thế giới thời bấy giờ.

Phía Hoa Kỳ do hai tướng John Dale Ryan (Thành viên của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ – JCS, cố vấn cao cấp của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ và Hội đồng An ninh Quốc gia, lập nhiều chiến công thành tích trong Thế chiến II) và John W. Vogt Jr (nguyên Tư lệnh lực lượng Đồng minh ở mặt trận Trung Âu trong Thế chiến II, Tổng tư lệnh Không quân Hoa Kỳ ở châu Âu) chỉ huy. Phía Việt Nam chủ yếu do ba tướng Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài, Lê Văn Tri chỉ huy. Hầu hết toàn bộ quân dân Hà Nội và nhiều tỉnh thành miền Bắc đều tham chiến, trong đó một bộ phận không nhỏ nữ binh và lão binh (bạch đầu quân – lính đầu bạc).

Không chỉ có miền Bắc chống lại chiến dịch Linebacker II của Mỹ, mà đồng bào miền Nam cũng góp sức chống lại chiến dịch này bằng những trận đánh để “rửa hận cho miền Bắc”. Ngay từ những ngày đầu đế quốc Mỹ đánh bom miền Bắc, đông đảo cán bộ đảng viên và quân dân miền Nam đều cảm thấy khó chịu, trăn trở, phê bình nhau: “Tại sao giặc Mỹ hỗn láo đánh miền Bắc mà ta trừng trị kém như vậy?”

Nhưng do thực lực của quân kháng chiến miền Nam lúc đó vẫn đang trong quá trình phục hồi, xây dựng, hoàn thiện lại kể từ chiến dịch Mậu Thân, không còn mạnh như trước Mậu Thân 1968, và lục quân Mỹ vẫn còn đầy đủ ở đây, nên miền Nam lúc đó không dễ mở những chiến dịch quân sự lớn, mà chủ yếu đánh du kích. Tuy nhiên, các lực lượng biệt động, dân quân – tự vệ Sài Gòn đã có những trận đánh vào Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, một số nơi có Mỹ-ngụy ở Sài Gòn, để phục thù cho đồng bào miền Bắc.

Trong 12 ngày đêm xâm lược không phận và tung hoành trên vùng trời Hà Nội, lực lượng không quân thiện chiến của Mỹ đã ném xuống hơn 36.000 tấn bom. Không quân Mỹ đã được lệnh dội bom vào các khu vực dân sự; nhà cửa, bệnh viện, nhà máy, trường học, nhà thờ, chùa chiền v.v. để khủng bố tinh thần Việt Nam. Những đợt tấn công này đã gây thương vong cho hàng chục ngàn dân lành, phá hủy hoàn toàn hàng ngàn nhà dân và hàng trăm trường học, bệnh viện, rạp hát, chùa miếu, nhà thờ, đền thờ, di tích lịch sử…. Tại Hà Nội, khu phố Khâm Thiên hoang tàn nhất, bị phá hủy hoàn toàn.

100% số nhà máy điện bị đánh phá, 1.500/1.600 công trình thủy lợi và gần 100 km đê xung yếu bị hư hại; Hầu hết cầu cống quan trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 3.987/5.788 xã, 350 bệnh viện, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; trong đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt hoàn toàn.

Bệnh viện Bạch Mai bị phá hủy. Về sau trong sân bệnh viện có tấm bia mang chữ “Căm thù” để tưởng nhớ về sự kiện bi thương này và ghi nhớ tội ác chiến tranh xâm lược.

“Chim lửa” B-52 lợi hại ra sao?

“Chim ưng lửa” B-52 có tên giao dịch là Boeing B-52 Stratofortress (Pháo đài chiến lược) là máy bay ném bom chiến lược phản lực được không quân Hoa Kỳ sử dụng từ Thế chiến 2. Do giá thành tốn kém (53,4 triệu USD mỗi chiếc) và số lượng khiêm tốn (lịch sử Mỹ tới nay chỉ có 744 chiếc được sản xuất), nên nó chỉ được dùng để thả các vũ khí quy ước trong các cuộc chiến tranh thực tế. Máy bay này là chiếc máy bay ném bom có tầm bay xa không cần tiếp nhiên liệu dài nhất, và mang được đến 27 tấn vũ khí.

Với tầm bay cao, được bảo vệ bởi nhiều máy bay tiêm kích và hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, có thể nói B-52 là một pháo đài bay không thể bị bắn trúng. Đặc biệt, nhiễu điện tử của không quân Mỹ như một bức màn chắn đã gây khó khăn lớn cho bộ đội phòng không. Như vậy, không quân Mỹ với “bửu bối” B-52 là một lực lượng vô địch thế giới và bất khả chiến bại trong thời điểm đó. Và chúng đua nhau bay “cả đàn” vào Hà Nội để thực hiện cuộc chiến tranh điện tử hủy diệt tàn bạo, muốn phá hủy thủ đô của nước Việt Nam thành bình địa, “đưa Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá”.

Trong chiến dịch Linebacker II, hãng thông tấn Associate Press (Mỹ) đã bình luận một cách đầy lo lắng: “Cứ theo tốc độ bị bắn rơi như thế này thì chỉ sau ba tháng, B-52 sẽ tuyệt chủng.” và “Những thất bại trên là do lực lượng phòng không của Việt Nam đã biết khai thác triệt để các kẽ hở rất mờ nhạt trong hệ thống phòng thủ của B-52. Ngược lại, việc triển khai ồ ạt B-52 trong khoảng thời gian ngắn không cho phép chúng ta khắc phục những điểm yếu, dẫn đến B-52 bị các tên lửa đất đối không của Việt Nam tiêu diệt.”.

Đây là thất bại nặng nề và duy nhất của loại máy bay này trên chiến trường, dẫn đến việc thay đổi hoàn toàn chiến lược sử dụng B-52 trong các giai đoạn sau và chiến lược phát triển không quân nói riêng, và quân sự nói chung của Hoa Kỳ về sau này.

Ba chiếc B-52B thuộc Không đoàn Ném bom 93 chuẩn bị cất cánh khỏi Căn cứ Không quân Castle, California, trong chuyến bay phá kỷ lục vòng quanh thế giới năm 1957.
B-52 đang rải bom

Sau chiến tranh xâm lược Việt Nam, phía Mỹ trang bị lại cho loại máy bay này, các máy bay B-52 được trang bị tên lửa hành trình và sẽ phóng tên lửa từ xa thậm chí không cần bay vào vùng trời mục tiêu. Tuy nhiên, hiệu ứng tâm lý gây choáng khi bị ném bom rải thảm đã bị quân dân Hà Nội đập tan, đã tan theo từng đợt B-52 rơi rụng. B-52 một thời được xem là niềm tự hào của người Mỹ và quân đội Mỹ. Tuy nhiên đối với nhân dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Hà Nội, thì B-52 là một biểu tượng của tội ác.

Phóng viên TTX Việt Nam ghi lại
những hình ảnh của cuộc chiến 12 ngày đêm.

Mối hận Khâm Thiên

Trận bom rải thảm phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội đêm 26 tháng 12 năm 1972 đã làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em; làm cho 178 cháu mồ côi trong đó có 66 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ; 290 người bị thương, 2.000 ngôi nhà, trường học, đền chùa, rạp hát, trạm xá bị sập, trong đó có 534 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chỉ còn là một hố bom, 7 người sống trong ngôi nhà này không còn ai sống sót.

Mảnh đất này trở thành một đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ” và một bức tượng bằng đồng tạc hình một người mẹ bế trên tay đứa con đã chết vì bom Mỹ, tượng được lấy nguyên mẫu từ chính chủ nhân của ngôi nhà bị hủy diệt này. Kể từ sau trận bom ấy, hàng năm, đến những ngày kỷ niệm trận bom, người dân trên phố, và nhiều nơi khác tới đây thắp hương tưởng niệm những người đã chết vì bom Mỹ.

Một góc phố Khâm Thiên sau trận ném bom của B-52 đêm 26 tháng 12 năm 1972

Dư luận thế giới nghĩ gì?

Chiến dịch ném bom vô nhân đạo của Hoa Kỳ đã bị phản đối vô cùng quyết liệt khắp thế giới, kể cả những nước đồng minh lâu năm, thân cận của Hoa Kỳ, dư luận nhiều nước gây áp lực để chính phủ của mình chính thức lên án cuộc ném bom. Báo Le Monde (Paris, Pháp) so sánh cuộc ném bom này với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Đức Quốc Xã thực hiện ở Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: “Việc Hoa Kỳ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ”.

Các chính phủ Anh, Ireland, Ý và Thụy Điển đều lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của thủ tướng Thụy Điển Olof Palme, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống loài người trên quy mô ngang với các tội ác diệt chủng của phát xít Đức tại trại tập trung Treblinka. Ông còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom, để gởi tới Nixon.

Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme
dẫn đầu đoàn biểu tình đòi Mỹ chấm dứt
ném bom Việt Nam.

Tại Mỹ, Nixon bị chỉ trích là “người đánh mất kiểm soát” (madman). Nhiều thành phần diều hâu từng ủng hộ cuộc ném bom trong chiến dịch Linebacker I hồi tháng 5 nay chất vấn cả sự cần thiết và tính tàn bạo nghịch thường của Linebacker II.

Năm 1972 không chỉ có một cuộc chiến ở Việt Nam, mà còn có những “cuộc chiến trong cuộc chiến”. Có “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”, có “cuộc chiến trong lòng quân đội Mỹ”, bao nhiêu người đã đào ngũ, trốn quân dịch, bắn giết nhau, lính bắn chết sĩ quan chỉ huy rồi bỏ trốn. Cuối năm đó còn có thêm “cuộc chiến trong lòng không quân Mỹ”. Trong chiến dịch Linebacker II, 16 phi công đã gởi đơn khiếu nại lên Bộ chỉ huy xin không bay; 45 gia đình gởi thơ chất vấn về trạng thái tinh thần phi công. Nhiều nơi đã xảy ra binh biến, nổi loạn.

Bất chấp những cuộc trấn áp (xả súng, thảm sát) tại đại học Kent và các thành phố ở California trước đó, nhân dân và sinh viên Mỹ vẫn xuống đường biểu tình đòi chính phủ chấp nhận ký vào hiệp định Paris.

Sau này, ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger thừa nhận: “Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước mà chiến tranh Việt Nam gây ra…. Chính cơ cấu của chính phủ đã bị tan rã. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng, con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia các cuộc biểu tình…. Sự kiệt sức là dấu ấn của tất cả chúng tôi. Tôi phải đi từ nhà tôi, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút”.

Đại tá quân đội Liên Xô Markov Lev Nicolayevich đã nhận xét về những trận đại chiến trên bầu trời Hà Nội như thế này: “Tôi đã nghiên cứu kỹ chiến lược chiến tranh của nhiều nước và thấy rằng, trên thế giới ít có cuộc chiến nào mà bên phòng vệ thắng bên tấn công, nhất là khi có sự chênh lệch quá lớn về tiềm lực quân sự, vũ khí trang bị như giữa quân đội Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ, đặc biệt là “siêu pháo đài bay B-52”, mà người Mỹ khoe là không thể bị bắn hạ! Vậy mà Việt Nam đã đánh thắng rất giòn giã. Đó thực sự là cuộc chiến tranh của trí tuệ với trí tuệ, thông minh “chọi” thông minh, chứ không phải là cuộc chiến tranh thông thường!”.

Ai thắng?

Sau trận đêm 26 tháng 12, số phận của chiến dịch Linebacker II đã được định đoạt, cường độ tập kích của B-52 giảm hẳn, B-52 dạt ra ngoại vi đánh Thái Nguyên và các mục tiêu hạng hai để tránh “tọa độ lửa” Hà Nội, Hải Phòng…. Tổng thống Nixon ra tín hiệu đề nghị nối lại đàm phán và ngày 30 tháng 12 đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch ném bom, quay lại đàm phán tại Paris và chấp nhận phương án cũ của hiệp định Paris mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết.

Sau trận này, khí thế của quân dân Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc dâng lên rất cao. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới đánh bại được “thần tượng B-52”. Và sau năm 1975 đến nay, với khoa học kỹ thuật công nghệ quân sự thế giới tiên tiến hơn, cũng vẫn chỉ có 1 máy bay B-52 bị bắn hạ trong chiến tranh Vùng Vịnh 1991.

Xác chiếc B-52D số hiệu 56-0605,
mật danh Cobalt 02 bị bắn rơi tại
hồ Hữu Tiệp (Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội),
trong chiến dịch Linebacker II

Trong khi đó, chiến dịch thất bại chua cay này đã làm đau đầu giới quân sự Hoa Kỳ. Đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn được địa điểm, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng được sở trường của mình để chống sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng sở trường chiến tranh du kích.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, theo như nhiều tướng Mỹ đã thú thật trong hồi ký của họ sau này; Việt Nam hầu như luôn là phía quyết định đánh lúc nào và đánh tại đâu, du kích Việt Cộng giăng khắp nơi, nông thôn chỗ nào cũng có du kích, thành thị nơi nào cũng có biệt động – dân quân – tự vệ, và phía Mỹ bị động, bị Việt Nam gần như “dắt mũi” trong suốt cuộc chiến. Đây là lần hiếm hoi mà họ có thể quyết định đánh lúc nào và đánh ở đâu, nhưng họ vẫn không tránh khỏi kết quả đại bại.

Từ đâu có chiến dịch Linebacker II?

Năm 1968, cuộc tổng tấn công và khởi nghĩa Mậu Thân nổ ra khắp miền Nam Việt Nam trong những vùng bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Nhờ chiến công đó mà những năm sau Việt Nam đã áp lực được Mỹ ngồi vào bàn đàm phán Paris trên thế kém. Trước đó, phía Mỹ luôn theo đuổi chính sách “đàm phán trên thế mạnh”, đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận những tiền đề, những nguyên tắc do họ đặt ra, chấp nhận những điều kiện do họ đưa lên.

Miền Nam tổng nổi dậy năm 1968

Cuộc hội nghị ở Paris giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là để có được một giải pháp hòa bình, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Ban đầu chỉ có đàm phán 2 bên là Việt Nam và Hoa Kỳ, về sau phát triển thành hội nghị 2 phe (Việt Nam, Hoa Kỳ) và 4 bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn).

Lập trường của Hoa Kỳ trong thời gian đầu phù hợp với mục tiêu chiến lược và lợi ích của họ trong khu vực: Mỹ được toàn quyền ở miền Nam. Miền Bắc không được chi viện cho miền Nam. Giải tán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Lập trường của Việt Nam trong thời gian đầu phù hợp với mục tiêu độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà: Quân đội Mỹ phải “cút” khỏi lãnh thổ Việt Nam. Người Việt Nam dù là Bắc, Trung, hay Nam đều có quyền đi, ở, đóng quân bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam, Mỹ không có quyền can thiệp. Mỹ phải chấm dứt xâm lược và hoàn toàn chấm dứt can dự, dính líu đến việc nội bộ của Việt Nam. Ngụy quyền không được phép tồn tại và phải bị giải tán. Hà Nội là thủ đô của cả nước Việt Nam, bao gồm miền Nam Việt Nam. Mỹ phải chấm dứt chiếm đóng bất hợp pháp, phải cuốn gói về nước vô điều kiện. Ngụy quyền phải giải tán vô điều kiện, và sau đó có thể những nhân vật chóp bu ngụy quyền phạm pháp (tội phản quốc) sẽ bị xử tội theo luật pháp Việt Nam.

Với lập trường còn quá xa nhau, mục tiêu còn quá trái ngược nhau như vậy nên suốt thời gian đó, hai phe Mỹ – Việt đã không đạt thành hiệp nghị mà chủ yếu dùng bàn họp ở Paris như là một mặt trận đấu tranh chính trị, tranh luận với nhau, Mỹ lên án “Bắc Việt Nam xâm lược Nam Việt Nam”, Việt Nam lên án chiến tranh xâm lược và những tội ác Mỹ-ngụy.

Năm 1969, do thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ, đặc biệt sau chiến dịch Mậu Thân, gần như cả thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ thúc ép chính phủ Mỹ sớm chấm dứt xâm lược Việt Nam và đưa lính Mỹ, đưa người thân của họ về nước.

Những thất bại quân sự và chính trị của Mỹ trong thời gian này đã tác động mạnh đến tình hình Liên bang Hoa Kỳ, tổng thống Nixon trong ngày nhậm chức tổng thống Mỹ đã phải phát biểu: “Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống tinh thần nước Mỹ và bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết xé rách vẫn còn lâu mới lành”.

Để cứu vãn tình hình bi đát của Mỹ trong khi các lực lượng chiến đấu của họ ngày càng lún sâu vào trong “vũng lầy Việt Nam” và ngày càng có nhiều lính Mỹ chết trận, tổng thống Nixon sau nửa năm cầm quyền đã đề ra “Chủ thuyết Nixon”, và chiến lược De-Americanization (Phi Mỹ hóa) cuộc chiến ở Việt Nam là một chiến lược cơ bản trong chủ thuyết này.

Đội hình F-4 phối hợp với A-7 không kích miền Bắc Việt Nam

Ban đầu Nixon và các cố vấn định dùng danh từ “Phi Mỹ hóa”. Nhưng sau đó bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird cho rằng danh từ này đã gián tiếp thừa nhận việc Mỹ đã xâm lược Việt Nam, thú nhận vai trò chính của Mỹ trong cuộc chiến. Do đó, ông đề nghị dùng một danh từ nào đó không đả động gì tới Mỹ. Theo đó, cái tên mới “nhẹ nhàng” hơn là Vietnamization (Việt Nam hóa) đã được sử dụng.

Cũng như chiến lược (Da) vàng hóa chiến tranh của người Pháp năm 1949 trong Chiến tranh Đông Dương, chiến lược này là một cách để dùng người Việt đánh người Việt, đẩy ngụy quân bản xứ ra đánh thay và chết thay, như những tấm bia đỡ đạn, nhằm giảm bớt thương vong cho lực lượng xâm lược. Đó cũng là quy luật chung của các cuộc chiến tranh xâm lược từ xưa đến nay trong lịch sử Việt Nam, mà trước đó các triều đại phong kiến Trung Hoa và thực dân Pháp đều đã sử dụng.

Thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, người Mỹ muốn “vắt hết quả chanh” nguồn nhân lực người Việt ở miền Nam Việt Nam, máu của thanh niên miền Nam, nhằm phục vụ cho cuộc chiến của họ, dùng người Việt dưới sự trả lương, huấn luyện, chỉ huy của người Mỹ để giảm bớt gánh nặng cho người Mỹ.

Nói chung, “Việt Nam hóa” là sự kết hợp ba chiến lược chiến tranh của Mỹ: “Chiến tranh giành dân”; “chiến tranh bóp nghẹt” và “chiến tranh hủy diệt”. Họ muốn đạt được ba mục tiêu đó với ít tổn thất nhất cho quân nhân Mỹ, và các lực lượng ngụy quân có thể tự thân tham chiến một mình, không cần lính Mỹ ra tay, và nếu không cần cả hỏa lực Mỹ hay không quân Mỹ thì càng tốt. Họ muốn xây dựng một đội quân bản xứ hoàn toàn đủ khả năng chiến đấu thay cho quân đội viễn chinh từ chính quốc.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin R. Laird khi đó đã miêu tả chính sách này trong tài liệu công khai của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ như sau: “Phát triển, trang bị, và huấn luyện quân đội ‘Nam Việt Nam’ và phân công họ ngày càng nhiều vai trò chiến đấu hơn, đồng thời đều đặn giảm bớt số lượng của quân nhân chiến đấu Mỹ.” (“Expand, equip, and train South Vietnam’s forces and assign to them an ever-increasing combat role, at the same time steadily reducing the number of U.S. combat troops”)

Việt Nam “vừa đánh vừa đàm” với Hoa Kỳ cho đến năm 1972. Chiến cuộc năm 1972 tại Việt Nam không phải là ngoại lệ với tình trạng “vừa đánh vừa đàm”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến những điều tương tự xảy ra trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông của nhà Trần (thế kỷ XIII) và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (đầu thế kỷ XV).

Mật độ sử dụng không quân của Hoa Kỳ trong năm 1972 tại miền Bắc Việt Nam vượt xa chiến tranh Triều Tiên, chỉ kém chiến tranh thế giới thứ hai. Chỉ trong 9 tháng, máy bay Mỹ đã rải xuống Bắc Việt Nam 210.000 tấn bom. Trong chiến dịch Linebacker II, nếu tính số lượng bom trong một ngày thì có thể bằng các cuộc ném bom xuống nước Đức cuối Thế chiến II; nhưng xét khu vực hạn chế đường kính 100 dặm quanh Hà Nội thì có thể thấy rằng chưa bao giờ có nhiều bom được ném xuống một khu vực trong thời gian hạn chế như vậy.

Áp giải phi công Mỹ

Đến giữa năm 1972, gã khổng lồ “chú Sam” bắt đầu “mỏi chân”, nên họ đẩy mạnh quá trình “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Đông Dương hóa chiến tranh”, tăng cường xây dựng, phát triển, trang bị, huấn luyện ngụy quân. Họ muốn đẩy quá trình phi Mỹ hóa lên cao nhất: Mỹ sẽ rút các đơn vị chiến đấu. Ngụy quân hoàn toàn đánh thay Mỹ. Từng bước biến những trận đánh giữa người Việt và người Mỹ trở thành những trận đánh giữa người Việt với nhau. Tương đồng với những gì thực dân Pháp đã làm từ năm 1949 với chiến lược “Vàng hóa chiến tranh” với ít thành công hơn.

Họ muốn dùng người Việt đánh người Việt, “thay màu da trên xác chết”. Nguyên văn câu nói của đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker, làm việc ở Việt Nam từ năm 1967 đến 1973, về chương trình Việt Nam hóa chiến tranh là: “Thay đổi màu xác chết” (“Changing the color of the corpses”).


Tại sao Mỹ ký xong rồi lại phá hoại hiệp định Paris?

Trước thực tiễn mới và theo kế hoạch nói trên, Mỹ cũng đã thay đổi mục tiêu trong hội nghị Paris. Nếu trước đó mục tiêu của Mỹ là quân đội Mỹ có toàn quyền ở miền Nam Việt Nam và quân đội Việt Nam phải rút về miền Bắc, thì bây giờ mục tiêu của quân đội Mỹ là làm sao cho Việt Nam để yên cho họ rút quân êm đẹp. Đồng thời vẫn duy trì yêu cầu quân đội Việt Nam phải rút về miền Bắc, giải tán Mặt trận và chính quyền Tây Ninh.

Như vậy, mục tiêu của Mỹ trong lúc này là rút thực binh, cứu vãn mạng sống của quân viễn chinh, đẩy mạnh hơn nữa quá trình Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh. Do đó họ mới thỏa hiệp, nhượng bộ nhiều vấn đề và chấp nhận ký vào hiệp định Paris, thực tế là để đổi lấy việc Việt Nam không cử binh đánh mà để yên cho họ rút quân số lượng lớn.

Sau khi Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu đó, hoàn thành việc rút quân mà không mất giọt máu nào, thì vai trò thực tế của hiệp định Paris đến đó là hết. Mỹ tích cực hậu thuẫn, cung cấp tiền bạc, vũ khí, hướng dẫn, và lệnh cho Thiệu “tiên hạ thủ vi cường” (đánh trước chiếm ưu thế), bất ngờ đánh mạnh, lấn chiếm nhiều vùng giải phóng, nhằm giành cho được thế thượng phong, trong khi quân đội Việt Nam được lệnh phải án binh bất động, chờ xem tình hình.

Vậy tại sao trước khi ký vào hiệp định, Mỹ còn ném bom miền Bắc?

Chính trị là vấn đề biến ảo khôn lường, thiên biến vạn hóa. Mặc dù Mỹ rất muốn Việt Nam để yên cho họ rút quân an lành, và họ chỉ cần ký vào hiệp định là đạt được mong muốn đó. Nhưng họ vẫn còn danh dự, uy thế, “thương hiệu” của một đại cường quốc. Để bảo vệ danh dự, hình ảnh Hoa Kỳ, và bảo vệ lợi ích của họ trong cuộc chiến, họ muốn buộc Việt Nam cũng phải nhượng bộ bằng cách rút về vĩ tuyến 17 các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Áp giải phi công Mỹ

Chiến dịch Linebacker II oanh tạc miền Bắc và thủ đô Hà Nội chính là để ép Việt Nam chấp nhận điều đó, cũng như một số điều khác của họ trong hội nghị Paris. Sau khi chiến dịch bị phá sản, Mỹ không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận bản dự thảo tháng 10 mà trước đó họ đã “làm giá” và “từ chối”, và ký hiệp định chính thức. Giáo sư Guenter Lewy, trong cuốn sách “Mỹ ở Việt Nam”, xuất bản năm 1978, đã cho biết: “Chiến dịch Linebacker 2 không thể vắt ra được những nhượng bộ quyết định nào của Việt Nam”.

Một số người thuộc chính phủ Sài Gòn tự an ủi rằng Mỹ làm như vậy là để làm vui lòng Nguyễn Văn Thiệu. Đây là lập luận phi lý. Người Mỹ không lãng phí nhân mạng, tiền bạc, máy bay, vũ khí và thời gian, tốn nhiều công sức, liều đánh tới như vậy, tốn kém, tổn thất đến như vậy chỉ để làm vui lòng một nhân vật mà họ không coi ra gì. Trong thời điểm đó Nixon đã tỏ ra không bằng lòng với Thiệu và nói nhiều câu với Kissinger cho thấy sự coi thường: “Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận ký vào.” “Tôi sẽ cắt đầu nó nếu cần thiết.” “Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được”.

Theo tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của Ngụy Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong cuốn “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” (The Palace File) xuất bản năm 1986 thì trong thời điểm đó Mỹ đã nhiều lần gởi thơ yêu cầu, bắt buộc, và đe dọa (kể cả việc nhắc lại vụ hạ sát Ngô Đình Diệm nhằm đe dọa tính mạng Thiệu) Thiệu phải ký vào hiệp định.

Quân đội Mỹ cuốn gói về nước
dưới sự kiểm tra, giám sát của
Quân đội Nhân dân Việt Nam (1973).

Bản chất của hội nghị Paris là gì?

Bản chất của hội nghị Paris ban đầu là để đôi bên đạt được mục đích tối cao của mình. Việt Nam muốn “Mỹ cút ngụy nhào”. Mỹ thì muốn có toàn quyền sinh sát ở miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam phải rút về Bắc, kháng chiến miền Nam bị giải tán.

Đến năm 1972, trước sự thắng thế của Việt Nam và sự thất thế, sa lầy của Hoa Kỳ, mục tiêu của họ lúc này là rút quân yên lành, giữ cho được và củng cố ngụy quyền. Như vậy, thực tế lúc này Việt Nam và Hoa Kỳ đã có một điểm chung quan trọng, đó là cả hai đều muốn quân đội viễn chinh rút khỏi. Và Việt Nam “cầu còn không được”, đã tạo điều kiện cho Mỹ làm việc đó.

Cả hai phe đều nhượng bộ vấn đề chấp nhận sự tồn tại của 2 chính quyền ở Tây Ninh và Sài Gòn như là một thực thể chính trị ở miền Nam Việt Nam. Điều này không có nghĩa hai phe công nhận sự chính danh của chính quyền Sài Gòn và chính quyền Tây Ninh với tư cách của một quốc gia, nhà nước. Lập trường ban đầu là hai phe đều không chấp nhận sự tồn tại “đồng minh” của nhau và yêu cầu “đồng minh” đó phải giải tán vô điều kiện.

Mỹ chấp nhận rút quân và đề nghị Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam Việt Nam cũng làm điều đó. Song Việt Nam luôn có nguyên tắc bất biến: Người Việt Nam có quyền đi đến bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam, bác bỏ lời đề nghị rút quân của Mỹ. Đây là vấn đề mà Việt Nam coi là một vấn đề mang tính nguyên tắc và không nhượng bộ, thậm chí không chấp nhận bàn về vấn đề đó. Và cuộc chiến ở Hà Nội nổ ra là tất yếu, Mỹ muốn ép Việt Nam phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, để Mỹ rảnh tay hơn, dễ dàng hơn trong việc củng cố ngụy quyền, huấn luyện ngụy quân, củng cố chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, và cũng để Mỹ bảo vệ được phần nào danh dự cường quốc của họ.

Richard Nixon, Gerald Ford, Henry Kissinger và Alexander Haig tại Nhà Trắng năm 1973

Nhìn chung, chiến dịch Linebacker II xảy ra nhằm ép bức Việt Nam phải chấp nhận rút các đơn vị quân đội từ miền Bắc phải trở về. Chấp nhận luật chơi quân đội Mỹ rút thì Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng phải rút. Và miền Nam chỉ còn lại chính phủ cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam, quân Giải phóng, và chính quyền, quân đội Sài Gòn.

Nói cụ thể hơn là họ muốn Việt Nam phải thay đổi bản dự thảo tháng 10, chủ yếu là nhượng bộ và chấp nhận điều khoản trước đó do họ đề xướng là QĐNDVN phải rút về Bắc. Nhưng Việt Nam chỉ chấp nhận nguyên tắc 1 nước Việt Nam: Các lực lượng nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. “Ông là người nước ngoài thì ông đi khỏi nước tôi. Còn đây là nhà tôi, tôi ở lại nước tôi, nhà tôi thì tôi muốn đi đâu thì đi. Tôi không bàn với ông chuyện tôi ở đâu trên đất nước tôi. Cũng như ông không bàn với tôi chuyện ông ở đâu trên đất Mỹ.”.

Với góc nhìn trịch thượng của kẻ mạnh, của kẻ quen thói diều hâu bá quyền, đậm chất thực dân của họ, thì một khi Mỹ đã “nhượng bộ” thì Việt Nam cũng phải nhượng bộ, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam thì Việt Nam cũng phải rút quân khỏi miền Nam. Việt Nam không làm vậy thì có nghĩa là Việt Nam không tôn trọng Mỹ, thậm chí là “trèo lên đầu lên cổ” người Mỹ. Nhiều phần tử diều hâu cho đó là một nỗi quốc sỉ cho quốc thể Hoa Kỳ, cho nên chiến dịch Linebacker II xảy ra là điều phải đến.

Bản chất của hiệp định Paris là gì?

Hiệp định này thực tế để bảo đảm cho việc Hoa Kỳ rút quân bình yên ra khỏi Việt Nam, và lúc đó sẽ không có chiến dịch quân sự từ Việt Nam. Nếu ai đã từng đánh nhau với người khác đều minh bạch rằng trong lúc đánh nhau không dễ nói chạy là chạy, đặc biệt trong trường hợp đang yếu thế hơn thì càng không thể nói chạy là chạy được. Chỉ cần quay đầu, quay lưng là bị nốc-ao ngay. Muốn chạy thì phải có khoảng cách an toàn nào đó hoặc đạt được thỏa thuận với đối phương.

Các danh tướng thời xưa, trong buổi đầu sơ khai nhất của nghệ thuật chiến tranh, cũng biết đạo lý này. Vị tướng nào đào tẩu thì đều cẩn thận dò trước ngó sau, gài lại phục binh chặn truy kích. Những tướng tài giỏi hơn thì biết dùng kế nghi binh, ngụy tạo số lò bếp v.v. để làm cho địch nghi ngờ không dám đuổi theo hoặc chậm trễ truy kích. Thời Tam quốc bên Trung Quốc, danh tướng Lục Tốn của Đông Ngô đã dùng nghi binh kế khiến cho sau 3 ngày lui quân thì quân Bắc Ngụy mới phát hiện ra doanh trại địch trống rỗng không còn một bóng người.

Trường hợp của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cũng vậy, nếu trong lúc hàng chục vạn quân Mỹ đang tụ tập dồn cục lo rút đi mà Việt Nam mở chiến dịch quân sự ngay lúc đó thì sẽ có đổ máu lớn. Trước đó Việt Nam cũng đã chứng tỏ được là họ có khả năng đánh ở bất kỳ nơi nào ở miền Nam Việt Nam, kể cả đầu não Sài Gòn, kể cả tòa đại sứ Mỹ, và đánh rất bất ngờ, khó lường.

Hai phía Mỹ – Việt ký vào hiệp định Paris

Nhiều cựu quân nhân Mỹ ngày nay cho rằng bản chất của hiệp định là một sự nhượng bộ và nhịn nhục của người Mỹ, như một cú đấm vào “niềm tự hào Hoa Kỳ” của họ, như một mũi tên bắn vào thần ưng, biểu tượng quốc gia của họ. Họ cho rằng họ phải rút đi mà không đổi lại được gì, lực lượng quân đội có tổ chức lớn từ miền Bắc vẫn ở miền Nam, và quân dân miền Nam cũng không giải tán. Trong khi những “nhượng bộ” của Việt Nam thì Mỹ đều không có khả năng và điều kiện để giám sát, kiểm tra, áp chế, thi hành.

Hai nhượng bộ đáng kể của Việt Nam là việc trao trả tù binh Mỹ-ngụy. Và việc chấp nhận sự tồn tại trong hòa bình của ngụy quyền Sài Gòn như là một trong các thành phần chính trị ở miền Nam Việt Nam, được quyền đứng gần ngang hàng với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Từ lập trường coi Ngụy Sài Gòn như là một đám ô hợp cần giải tán ngay, không chấp nhận sự tồn tại của họ như là một trong những thành phần chính trị, thì đã chuyển thành chấp nhận sự tồn tại của họ như một thành phần chính trị, coi họ gần ngang hàng với chính quyền Tây Ninh và “thành phần thứ ba”. Việt Nam cũng đồng ý cho Thiệu tham gia bầu cử trong chính phủ liên hiệp 3 thành phần trong cuộc tổng tuyển cử quy định trong hiệp định Paris, cùng với người của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và “thành phần thứ ba”.

Đây là một nhượng bộ lớn, bởi vì theo luật pháp Việt Nam thì Ngụy Sài Gòn là một tổ chức phản quốc theo giặc. Nếu chiếu theo các nguyên tắc và tiêu chí ngày nay thì có thể xem là một tổ chức khủng bố, mạo xưng bất hợp pháp các “quốc hội”, “nhà nước” lên trên một Nhà nước Việt Nam đã có sẵn từ năm 1945 và Quốc hội khóa 1 từ năm 1946, càn quét, khủng bố trắng nhân dân, thảm sát thường dân, toa rập, đồng lõa, tiếp tay cho Mỹ dùng bom đạn khủng bố, thảm sát nhân dân, rải bom và chất độc hóa học xuống những khu vực dân sự, hàng trăm vụ thảm sát đã xảy ra trong vùng tạm chiếm ở miền Nam….

Như vậy, vì mục tiêu đại cuộc mà Việt Nam trong thời điểm đó đã đành phải tỏ ra xem những người miền Nam cứu nước với những người theo giặc phản bội Tổ quốc là “bằng nhau”, “ngang nhau”, đó là những nhượng bộ rất lớn, cả về nguyên tắc lẫn luật pháp, đạo lý.

B-52, “quái vật điện tử” được xem là “không thể bắn trúng” rụng ngày một nhiều khi bay từng đàn, từng đàn vào lò lửa Hà Nội

Hiệp định này đã đem lại sự “danh chính ngôn thuận” cho các đội quân viễn chinh mệt mỏi của Hoa Kỳ rút khỏi chiến trường. Phần nào giữ được danh dự nước lớn của Hoa Kỳ. Còn đối với Việt Nam thì hiệp định này đã góp phần đạt được mục tiêu đầu mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: “Đánh cho Mỹ cút”. Sau đó, theo hiệp định, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam để thành lập chính phủ ba thành phần ở miền Nam Việt Nam (chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn và “lực lượng thứ ba” bao gồm những thành phần trung lập, muốn hòa bình và thống nhất bằng biện pháp ôn hòa).

Nhưng cũng như việc phá hoại cuộc tổng tuyển cử toàn quốc theo hiệp định Genève 1954, Mỹ lại phá hoại cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam theo hiệp định Paris 1973. Sau khi quân đội Mỹ đã về nước, không còn phải lo đến nhân mạng binh sĩ và áp lực từ Quốc hội, chính trường, dư luận nhân dân, thì chính phủ Mỹ lập tức phản bội hiệp định, đưa Thiệu ra phát ngôn quá khích và phá hoại hiệp định.

Lê Đức Thọ và Henry Kissinger sau khi ký kết hiệp định Paris 1973

Mỹ-Thiệu đã phá hoại hiệp định Paris như thế nào?

Trong các thỏa thuận giữa hai phe và các điều khoản trong hiệp định, Mỹ chỉ thực hiện nghiêm chỉnh điều khoản rút quân. Còn ngoài ra tất cả các điều khác họ đều phớt lờ, phá hoại, hoặc thi hành không nghiêm chỉnh.

Nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabrien Côncô, tác giả cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” do Nhà xuất bản Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết trước khi hiệp định Paris được ký kết thì Nixon đã liên tiếp gởi thơ cho Thiệu mà ở đó Mỹ đã bắt Thiệu ký vào hiệp định. Và sau khi hiệp định đã được ký kết thì thì họ cho Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định, bằng việc cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là “chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam”; không thừa nhận chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam như đã thỏa thuận trong hiệp định Paris.

Mỹ-ngụy trước khi hiệp định Paris được ký kết, đã chấp nhận yêu cầu của Việt Nam về một cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ ở miền Nam để thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần, từng bước tiến tới thống nhất nước nhà trong hòa bình (như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này đã thực hiện nghiêm chỉnh năm 1976). Rốt cuộc, không có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được.

Trước đó, Thiệu lên đài phát thanh bác bỏ nguyên tắc một nước Việt Nam thống nhất: “Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam, mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược bên nào”.

Sau khi Mỹ đã thành công rút quân về nước, Nixon liền ra tuyên bố cho biết Mỹ sẽ không ủng hộ cuộc tổng tuyển cử dân chủ ở miền Nam Việt Nam và sẽ làm những gì có thể để giữ ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu không sụp đổ. Nguyễn Văn Thiệu công khai tuyên bố lập trường 4 không: Không liên hiệp; Không thương lượng với đối phương; Không có hoạt động của cộng sản hoặc đối phương trong nước; Không để lọt vào tay đối phương bất cứ lãnh thổ nào, tiền đồn nào và khẳng định “không có hòa bình với cộng sản”, “phải xóa thế da beo”, “bắn bỏ những ai chứa chấp cộng sản”.

Trong hồi ký “Tổng Hành Dinh trong Mùa xuân toàn thắng”, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về chiến dịch Linebacker II của Hoa Kỳ như sau:

“Sau khi ra lệnh ném bom vào dịp Quốc hội Mỹ đang kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, Níchxơn lánh mặt đi nghỉ ở Kibiscâynơ, bang Florida, tránh các nhà báo và công luận Mỹ. Thế nhưng “chạy trời không khỏi nắng”. Búa rìu dư luận đã giáng xuống đầu bọn xâm lược, đòi chúng phải chấm dứt ngay cuộc diệt chủng ở Việt Nam.

Hành động tàn bạo của Níchxơn trùm bóng đen lên ngày lễ Giáng sinh, khiến lương tâm của cả loài người nổi giận. Chưa bao giờ làn sóng phản đối chiến tranh của đế quốc Mỹ lại bùng lên dữ dội như những ngày này trên khắp hành tinh và ngay tại nước Mỹ. Các nhà lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ra tuyên bố kịch liệt lên án hành động xâm lược mới của Mỹ, khẳng định sự ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Các đảng cộng sản và công nhân phẫn nộ tố cáo tội ác của Mỹ, kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi hoà bình cho Việt Nam. Ở khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người xuống đường sôi sục biểu tình lên án mạnh mẽ hành động tội ác ghê tởm của Nhà Trắng. Các nghị, sĩ Quốc hội Mỹ ở cả hai viện chỉ trích gay gắt hành động leo thang mới của Níchxơn đã tiến hành mà không tham khảo ý kiến Quốc hội và nhân dân Mỹ. Tờ Thời báo Niu Yoóc, ngày 20-12-1972, cảnh cáo “Mỹ có nguy cơ trở lại một kiểu dã man của thời kỳ đồ đá?”. Duy nhất chỉ có bè lũ Nguyễn Văn Thiệu là hí hửng, vui mừng. Hãng AP (Mỹ) ngày 19-12 đưa tin “một quan chức cao cấp của Nam Việt Nam cho rằng cuộc tiến công trở lại vào vùng trung tâm của Hà Nội và Hải Phòng là để khuyến khích chúng tôi”… rằng “việc này chứng tỏ Mỹ không bao giờ bỏ rơi chúng tôi”, và nhắc lại lời của Thiệu tháng 8-1972 van xin Mỹ “ném bom cho tan nát miền Bắc Việt Nam(!)”. Xấu xa đến mức báo Nhân đạo (L Humamté) ở Pháp đã bình luận: “Ngay như trước đây, trong hồi Chiến tranh thế giới thứ hai, những tên Pháp gian như Đôriô cũng không dám đề nghị “đồng minh” tàn phá Paris. Thế mà nay Thiệu lại mong muốn Mỹ ném bom tàn phá đất nước mình. Thiệu thật đáng xấu hổ hơn cả sự xấu hổ!”.

Thiệu đã có những phát ngôn vô cảm, nhẫn tâm, độc ác, và lộ rõ bản chất phản quốc. Trong lịch sử chưa từng ghi nhận một kẻ bán nước nào lại đủ sự tàn độc và xấu xa để thốt lên được những lời lẽ sặc mùi phản dân hại nước đến cấp độ đó, dù là Trần Kiện, Trần Ích Tắc, hay Lê Chiêu Thống.

Mặc dù có cầu ngoại viện, để mong “giúp” đưa mình lên ngai vàng, nhưng họ chưa bao giờ xin “đồng minh” Hốt Tất Liệt và Nguyên Mông, Càn Long và Mãn Thanh phá hủy Thăng Long. Còn Thiệu thì công khai xin Nixon và Hoa Kỳ phá hủy Hà Nội.

Mặc dù trước đó Việt Nam bị chia đôi thành Đàng Ngoài và Đàng Trong hơn 100 năm nhưng Lê Chiêu Thống chưa bao giờ dám tuyên bố xanh rờn “Bắc Hà là Bắc Hà và Nam Hà là Nam Hà, mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Đại Việt, Tây Sơn phải rút về Nam Hà, không bên nào được xâm lược bên nào” như Nguyễn Văn Thiệu đã phát biểu.

Vị trí của “Trạm Yankee”, nơi đậu các tàu sân bay Hoa Kỳ trên Biển Đông

Chữ ký của Hoa Kỳ và chữ ký bất đắc dĩ của ngụy quyền Sài Gòn còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau thì họ đã mau chóng “lật kèo”:

– “Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.”

Những hành động phá hoại hiệp định kể trên đã không cho thấy điều đó.

– “Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, “cố vấn” và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.”

Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân nhưng để lại hàng vạn “cố vấn” và chuyên gia quân sự mặc thường phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.

Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân lục chiến. Việc quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người lính Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã “hứa lèo” và chuyển giao nó lại cho quân đội Sài Gòn.

– “Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).”

Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân trên quy mô lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy chiến tranh với hàng vạn “cố vấn” và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự. Họ hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể xây dựng và củng cố được một chế độ thực dân mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài Việt Nam.

Hoa Kỳ đã phá hoại tổng tuyển cử theo hiệp định Genève 1954 sau 2 năm. Nếu như khi đó Hoa Kỳ ngụy biện đổ cho mình và ngụy quyền Bảo Đại của Pháp không ký vào đó nên “không cần” thi hành (hiệp định có giá trị trên lãnh thổ đó thì chính quyền nào cũng phải thi hành, Mỹ-Bảo Đại-Diệm “thừa kế” từ Pháp thì phải thi hành dù có ký hay không), thì lần này Mỹ và ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu có ký vào hiệp định và ngay sau khi rút quân thành công đã bội ước ngay. Có thể nói đây là một sự lật lọng nhanh chóng, ngang ngược và trắng trợn hiếm thấy trong lịch sử chính trị thế giới.

– “Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.”

Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam đến sau ngày 30/4/1975 mới được tự do. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.

oOo

Sau chuyến đi Mỹ gặp Nixon thì Thiệu lại càng quá khích hơn, phá hoại hiệp định Paris một cách bài bản và có hệ thống, đặc biệt là bóp nghẹt mọi quyền tự do được quy định trong điều 11: Quyền đi lại làm ăn sinh sống, bị hạn chế, kiểm soát, tự do tín ngưỡng bị xúc phạm, kỳ thị, nhất là với giới tăng ni Phật tử. Danh từ “sư Việt Cộng” được báo chí Sài Gòn tận dụng để “chụp nón cối” các tăng ni. “Noi gương” thời Mỹ-Diệm, thấy đất chùa nào muốn cướp thì vu cho là “Việt Cộng nằm vùng”, “chứa chấp Cộng Sản”, “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản”, gán ghép chụp mũ vu khống vô tội vạ. Những người bị tình nghi thân cộng đều bị đặt máy nghe lén, theo dõi, cấm đoán, bắt cóc, bắt bỏ tù, tra khảo, đập chết trong nhà tù, đày ra Côn Đảo – Phú Quốc, đàn áp khốc liệt.

Riêng ở miền Tây Nam Bộ và một số vùng, thời kỳ này Thiệu vi phạm lộ liễu hiệp định Paris, lệnh ngừng bắn không được thực hiện, trái lại Thiệu cho xuôi quân bắn giết, đốt phá và lấn chiếm vùng giải phóng, bành trướng mở rộng vùng tạm chiếm. 75 tiểu đoàn ngụy, máy bay, xe tăng, vũ khí hiện đại tập trung tấn công ồ ạt vào Cần Thơ, Vị Thanh, Long Mỹ, tiến tới tấn công U Minh, lấn chiếm toàn bộ miền Tây.

Họ ra sức kềm kẹp cấm đoán mọi quyền của dân, không cho quần chúng trở về ruộng vườn cũ, không cho đi lại làm ăn – thực hiện chính sách “tát nước bắt cá”, để tiêu diệt cách mạng, dồn dân vào các trại tập trung. Đồng thời tuyên truyền xuyên tạc hiệp định, gây hoài nghi trong quần chúng, bảo rằng Việt Cộng đã thua Mỹ nên phải ký hiệp định Paris, cấm đoán quần chúng không cho tổ chức mừng hòa bình, bắt học thuộc lòng 10 điều phải làm, 10 điều bị cấm.

Nếu như năm 1956 Mỹ-Diệm phá hoại tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam là vì CIA thăm dò dư luận và biết rằng Hồ Chí Minh sẽ thắng chắc, thì năm 1973 Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử thống nhất miền Nam (hợp nhất vùng giải phóng và vùng tạm chiếm), thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần là vì chính phủ Mỹ, Thiệu, CIA biết lòng dân ủng hộ Mặt trận, Thiệu bị chống khắp nơi, kể cả từ những đảng phái chống cộng, thân Mỹ, ghen ghét vì Thiệu được Mỹ sủng ái.

Thiệu cũng bị chống rất gay gắt từ “thành phần thứ ba” (trung lập giữa cộng sản và tư bản, không phải là cán bộ cộng sản, chống Mỹ-Thiệu, ủng hộ thống nhất – độc lập – hòa bình, yêu cầu quân đội nước ngoài rời khỏi VN), và Thiệu cũng bị chống bởi nhiều đồng bào Phật tử, giáo phái, thậm chí các tín đồ Thiên Chúa giáo cũng không ưa Thiệu vì họ trung thành với nhà Ngô. Thiệu là một trong những tay đầu sỏ trong cái gọi là “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” do Mỹ giật dây năm xưa, đảo chính và hạ sát anh em nhà Ngô.

Mỹ-Thiệu cũng nghi ngờ và cáo buộc rằng “thành phần thứ ba” thực chất cũng đã đi theo Việt Cộng từ lâu, hay ít nhất là có cảm tình với Việt Cộng, do Việt Cộng lãnh đạo, cho nên chính phủ ba thành phần chẳng khác nào “hai đánh một”.

Với tình hình Thiệu bị mọi phe phái, đối thủ chính trị ở miền Nam, với đủ mọi màu sắc, xu hướng chính trị, chống đối quyết liệt, thì việc tham gia bầu cử để hy vọng có một chân trong chính phủ ba thành phần, mà hai thành phần một bên là Mặt trận, một bên là “lực lượng thứ ba” vốn cũng đã “ghét cay ghét đắng” Thiệu, chẳng khác nào là một sự “mơ giữa ban ngày”. Với tình hình đó mà Thiệu chấp nhận bầu cử thì Thiệu sẽ không còn gì cả.

Mỹ và Thiệu hiểu rằng nếu bầu cử một cách đàng hoàng, không dàn dựng như những cuộc “bầu cử phiếu xanh phiếu đỏ”, “tranh cử đối lập cuội” trước đây, có sự giám sát của các tổ chức, đoàn thể trung lập trong nước và quốc tế, thì Thiệu sẽ chẳng “xơ múi” được gì. Số phận của Thiệu có lẽ cũng sẽ không khác gì với Bảo Đại, Việt Quốc, Việt Cách trong chính phủ liên hiệp nhiều thành phần của Việt Minh trước đây. Sớm muộn gì rồi tất cả cũng sẽ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Do đó, việc Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử cũng là điều không quá gây ngạc nhiên, là điều nằm trong dự liệu của Việt Nam.

Việc Mỹ-ngụy viện đủ lý do để không chấp hành tổng tuyển cử ở miền Nam để thành lập chính phủ ba thành phần, cũng như các điều khoản khác, và sau đó phá hoại, không coi hiệp định Paris ra gì, đã làm cho giải pháp hòa bình ở miền Nam Việt Nam và giải pháp thống nhất Việt Nam trong hòa bình vào năm 1973 đã bị vô hiệu hóa và không còn ý nghĩa gì. Hiện thực mới này đã buộc những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam phải chiến đấu tự vệ trước nhiều đợt càn quét mới của ngụy quân, và Việt Nam đã tiến hành phản công, tiến tới mục tiêu dứt điểm: “Đánh cho ngụy nhào”, theo lời dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bản chất và vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là gì?

Thiết kế chính trị của một chế độ XHCN luôn có Đảng và Mặt trận. Đảng trên nguyên tắc là lực lượng tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo đất nước. Còn Mặt trận trên nguyên tắc là một mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết các giai cấp để cùng nhau thực hiện mục tiêu hiện tại của Đảng. Mặt trận ở Việt Nam trong lịch sử hiện đại có nhiều tên gọi, trong đó có 3 tên gọi được nhiều người biết tới: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra trước khi có Việt Minh còn có Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc Thống nhất….

Đây là những Mặt trận khác nhau về tên gọi và mục tiêu trong từng thời kỳ, nhưng có cùng 1 bản chất, cùng 1 vai trò với các nhiệm vụ khác nhau. Nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh là đoàn kết dân tộc để chống Pháp trên toàn quốc. Nhiệm vụ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đoàn kết dân tộc (nhất là các phe phái ở miền Nam) để chống Mỹ trên phạm vi miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi thành phần, tầng lớp, trong và ngoài nước, để cùng nhau kiến thiết đất nước.

Các chế độ XHCN khác ở Liên Xô, châu Âu, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên, Lào…. đều có những Mặt trận như thế. Trung Quốc có Mặt trận Dân Minh (Trung Quốc Dân chủ Đồng minh), đoàn kết lại các đảng phái dân chủ ở Trung Quốc như Nông Công Đảng (Đảng dân chủ nông công Trung Quốc), Trí Công Đảng (Đảng trí công Trung Quốc)…. Bắc Triều Tiên có Mặt trận Dân chủ Thống nhất Tổ quốc, đoàn kết các chính đảng ở nước này như Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Dân chủ Xã hội Triều Tiên, Đảng Thanh hữu Thiên đạo (giáo phái)…. Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội của Việt Nam trước khi tự giải tán cũng nằm trong Mặt trận Tổ quốc.

Mặt trận chính thức hoạt động ở miền Nam Việt Nam vào năm 1960, lấy tên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và các nhân sĩ trí thức yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh chống Mỹ-Diệm, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập (nghĩa là không mang màu sắc ý thức hệ), tiến tới thống nhất nước nhà.

Một chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam đứng dưới lá cờ chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các Mặt trận trước đó và sau này, là các tổ chức chính trị – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra trong từng thời kỳ khác nhau. Các tên gọi của Mặt trận tương xứng với các nhiệm vụ trong thời kỳ đó.

Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thời đó còn được một số người gọi là chính quyền Tây Ninh, chính phủ Tây Ninh, là một chính thể cách mạng lâm thời do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập vào năm 1969, sau khi Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch “Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh”, đây là chủ bài của Việt Nam để đối phó với quân bài “Việt Nam Cộng hòa” của Mỹ trên bình diện pháp lý quốc tế, đặc biệt trong trường hợp Mỹ muốn “lấy thịt đè người”, dùng ngụy quyền của mình để ngụy tạo “số đông” 2 chọi 1 trên bàn đàm phán.

Rút kinh nghiệm trong hội nghị Genève về Đông Dương, khi Việt Nam ban đầu chỉ có 1 mình, trong khi phe Pháp thì có Pháp và chính quyền Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam, còn gọi là “chính phủ Quốc gia”). Phần lớn vì nguyên nhân đó, và cũng vì tin tưởng đồng minh Liên Xô và Trung Quốc, nên Việt Nam đã cho hai đồng minh vào tham gia đàm phán để củng cố thế mạnh đàm phán của mình.

Không ngờ sau đó Trung Quốc đi đêm với Pháp – Mỹ và trở giáo, nên hiệp định Genève không đạt được thắng lợi như mong muốn và không tương xứng với thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu của Việt Nam. Theo hiệp định Genève 1954, thực dân Pháp không cần phải rút ngay, thay vào đó là rút dần trong hai năm, và phải chờ đợi đến hai năm sau mới tổ chức tổng tuyển cử hy vọng thống nhất đất nước trong hòa bình. Hai năm là quá lâu, đã tạo điều kiện, tạo cơ hội cho các thế lực ngoại xâm đánh dẹp các lực lượng kháng chiến miền Nam và củng cố vững chắc “dinh lũy” của họ.

Hiệp định Paris 1973 quy định Quân đội Nhân dân Việt Nam ở lại miền Nam. Còn theo hiệp định Genève 1954 thì QĐNDVN phải rút về miền Bắc. Đó là những cái khác nhau then chốt, nói lên chiến thắng tuyệt đối của Việt Nam trong hiệp định Paris.

Nhớ mãi bài học cay đắng đó, không muốn dẫm vào vết xe đổ năm 1954, nên lần này Việt Nam không cho Liên Xô và Trung Quốc tham gia quá trình đàm phán. Đồng thời dùng Cộng hòa miền Nam Việt Nam để “nói nhảm” những vấn đề không quan trọng, không thực chất với chính quyền Sài Gòn. Còn Việt Nam và Hoa Kỳ rảnh tay gặp riêng tranh luận, bàn bạc với nhau những vấn đề chính yếu, quan trọng, và đi vào thực chất. Phái đoàn của Việt Nam đứng đầu bởi ông Lê Đức Thọ và phái đoàn của Mỹ đứng đầu bởi Henry Kissinger chính là nhân tố quyết định.

Nhờ cách làm như vậy, cộng với chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”, đập tan “thần tượng B-52” của Mỹ, nên lần này Việt Nam tạo ra được kết quả nhanh gọn và dứt khoát, khác hẳn với những gì đã diễn ra năm 1954. Lần này quân đội Mỹ phải “cút” vô điều kiện và ngay lập tức, thậm chí Quân đội Nhân dân Việt Nam còn cho người ra giám sát sự rút quân đó. Nhiều cựu binh và giới sử học Mỹ đã coi đây là một sự nhục quốc thể, niềm tự hào Hoa Kỳ đã bị đánh mạnh vào.

Lần này Việt Nam cũng không phải chờ hai năm mới có tổng tuyển cử. Thay vào đó, hiệp định quy định tổng tuyển cử phải được tổ chức ngay sau khi Mỹ hoàn thành việc rút quân. Mỹ rút quân thì thực chất kết cục cuộc chiến đã được định đoạt, trước sau gì ngụy quyền cũng sẽ sụp đổ, nhất là khi QĐNDVN ở lại miền Nam.

Do đó, nếu bên kia phá hoại hiệp định, không đáp ứng, thì nghĩa là điều khoản đó vô hiệu, Việt Nam sẵn sàng dùng biện pháp vũ lực để tiến lên đánh dứt điểm cho “ngụy nhào”, đánh bại những cố gắng bấu víu cuối cùng trong tuyệt vọng của Mỹ, hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất Việt Nam.

Quân Mỹ rút đi có phải là chấm dứt xâm lược hay không? Cuộc chiến từ năm 1973 có phải là “nội chiến” hay không?

Cũng như trước năm 1964, khi Mỹ chưa đổ đại quân vào, thì lúc đó có phải là “nội chiến” hay không? Đương nhiên là không! Vì trong bất kỳ giai đoạn nào từ năm 1954-1975 thì Mỹ vẫn là người lãnh đạo cuộc chiến ở phe bên kia. Hai cuộc trường chinh liên tục, tiếp nối nhau từ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong thời kỳ 1945-1954 và chống toàn Mỹ đến năm 1975.

Quân đội Sài Gòn là do thực dân Pháp thành lập, dữ kiện này ghi rõ trong sách giáo khoa Sài Gòn trước 1975 và nhiều tài liệu, hồi ký, lời kể của các sĩ quan ngụy. Như vậy quân đội này là của Pháp. Sau đó Mỹ vào dùng và vá lại bằng tổ chức kiểu Mỹ. Nhiều tài liệu của Mỹ cũng cho biết như vậy. Trong bài “Lesson of the Vietnam War” của cựu sĩ quan Bộ quốc phòng Mỹ Daniel Ellsberg ghi rõ các lý do mà Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam, trong đó có lý do thứ hai: “Bởi vì việc tra tấn và giết chóc thiếu nhân tính đang được thực hiện bởi đội quân mà Hoa Kỳ trang bị, huấn luyện và trả lương.”

Trong giai đoạn 1973-1975, ngụy quân vẫn chiến đấu cho Mỹ, cho quyền lợi của Mỹ, theo sự chỉ đạo của Mỹ, theo ý muốn của Mỹ, phục vụ cho chiến lược của Mỹ, và vẫn do Mỹ nuôi dưỡng. Mỹ buông ra là sụp đổ. Như vậy trong giai đoạn này là một hệ thống thực dân mới (người bản xứ trực tiếp chiến đấu, làm việc, quản lý, người chủ đứng ngoài giám sát, kiểm soát, chi tiền, đỡ đầu và hưởng lợi). Giai đoạn 1964 đến 1973 là giai đoạn gần như thực dân cũ, nghĩa là Mỹ trực tiếp vào làm, trực tiếp vào đánh.

Chủ nghĩa thực dân cũ và mới là gì?

Chủ nghĩa thực dân là chính sách tạo dựng một chế độ thuộc địa. “Mẫu quốc” là nước tuyên bố chủ quyền đối với những thuộc địa này. Cấu trúc xã hội, chính quyền và kinh tế của lãnh thổ bị quốc gia thực dân áp đặt. Thuộc địa kiểu cũ bị thiết lập chế độ nô lệ, nhân dân thuộc địa bị nô dịch, bóc lột nặng nề và công khai.

Sự khác nhau giữa chủ nghĩa thực dân cũ (colonialism) và mới (neocolonialism) chủ yếu nằm ở hình thức và mức độ can thiệp, mức độ ảnh hưởng. Thực dân cũ duy trì hình thức thuộc địa, tuyên bố công khai rằng đây là thuộc địa của họ.

Còn thực dân mới thì tuyên bố rằng các thuộc địa có “độc lập”, và đó là cái độc lập hình thức bề ngoài, còn trên thực tế thì không có bao nhiêu quyền hạn hay khả năng tự chủ, tự quyết. Tương tự một khu tự trị dán nhãn hiệu quốc gia độc lập. Nói chung, đó là một hình thái độc lập giả tạo, giả hiệu. Chỉ có cái tên, không có thực chất.

Thực dân mới không đem quân “công thành chiếm đất” sát nhập đất đai lãnh thổ. Họ cũng không trực tiếp đô hộ thông qua việc thiết lập hệ thống thuộc địa (colony), và rồi cướp bóc mọi nguồn tài nguyên và nhân lực của thuộc địa đem làm giàu cho mẫu quốc.

Thực dân mới tuyên bố “công nhận nền độc lập”, “tự do dân chủ” của một thuộc địa có tên trên bản đồ thế giới như là một quốc gia chính thức. Và nếu cần, họ sẽ vận động các đồng minh, chiến hữu, chư hầu để “công nhận” cái gọi là “quốc gia” đó, từng bước dần dần biến thành một sự “hợp pháp quốc tế”, một sự “chính danh”, hợp thức hóa sự đô hộ thực chất của mình.

Họ, trên thực tế, kiểm soát gián tiếp các thuộc địa kiểu mới về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa (trường hợp mức độ nặng), hoặc thông qua kiểm soát về kinh tế mà kiểm soát về chính trị (mức độ trung bình). Cơ sở vật chất của thực dân mới là sở hữu của các công ty tài phiệt nước ngoài về tư liệu sản xuất của thuộc địa kiểu mới, còn chỗ dựa xã hội của nó là các giai cấp, tầng lớp bóc lột ở thuộc địa, đặc biệt là tầng lớp tư sản mại bản. Thủ đoạn thường thấy trong thế kỷ 21 ngày nay là viện trợ kinh tế kèm theo điều kiện chính trị có lợi cho “mẫu quốc” (mức độ nhẹ). Nói cách khác là dùng tiền mua chủ quyền.

Các quốc gia trên thế giới dưới tầm ảnh hưởng của quân đội Mỹ, tính đến năm 2007.
Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự Mỹ càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng càng ít.
Hiện Mỹ đang có số lượng quân đội và căn cứ quân sự ở nước ngoài nhiều nhất thế giới.

Chủ nghĩa thực dân mới ngày nay, ở một mức độ nhẹ nhàng hơn, tinh vi hơn, khôn khéo hơn, đã sử dụng chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa và các kênh chính trị gián tiếp, kinh tế, văn hóa, quyền lực mềm, để lũng đoạn, thao túng, kiểm soát một thuộc địa kiểu mới thay vì kiểm soát, điều khiển thẳng thừng bằng quân đội chính quốc hoặc chính trị trực tiếp.

Các tập đoàn tư bản tài phiệt đa quốc gia thông qua những tác động này sẽ tạo sức ép, ký kết các hợp đồng béo bở và thực thi các chính sách có lợi cho họ ở những quốc gia này, tiến hành bóc lột nguồn lực lao động, cướp nguồn tài nguyên một cách “hợp pháp”, “danh chính ngôn thuận”, qua “đầu tư”, cổ phần hóa, hợp đồng kinh doanh bất bình đẳng.

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dân mới” (“neocolonialism”) lần đầu tiên được nêu ra bởi Kofi Ankomah, tổng thống đầu tiên của nước Ghana độc lập, và đã được thẩm định, nghiên cứu, phân tích bởi các nhà chính trị học, học giả và triết gia thế kỷ 20, trong đó có những người có uy tín quốc tế cao Jean-Paul Sartre và Noam Chomsky.

Xét tổng quan ở tầm vĩ mô, thì hình thái xâm lược trong lịch sử thế giới diễn ra chủ yếu bằng 3 hình thức: Thời cổ đại và trung đại là xâm lược công thành chiếm đất, thôn tính, cướp nước rõ ràng, sát nhập nước bị thôn tính vào nước đi thôn tính. Thời cận đại là xâm lược kiểu thực dân (cũ), không chính thức cướp nước bằng cách sát nhập nước này vào nước kia, sát nhập đất đai, nhưng chiếm đóng và dùng chế độ toàn quyền thuộc địa để đô hộ nơi đó, và công khai gọi nơi đó là một “thuộc địa” (colony).

Thời hiện đại chủ yếu là xâm lược kiểu thực dân mới, không chính thức sử dụng chế độ thuộc địa, không công khai gọi nơi đó là một “thuộc địa”, thậm chí ngụy quyền bản xứ được dựng lên ở nơi đó có thể có một ít thực quyền nào đó do mẫu quốc ban phát. Nói chung, thực dân cũ là trực tiếp vào làm, thực dân mới là đứng ngoài xem “CEO” làm, và trong trường hợp đặc biệt cần thiết nào đó thì mẫu quốc mới “nhảy” vào.

Đầu tiên, từ thời cổ đại, trung đại đến cận đại, đa số các nước, các đế chế đều thôn tính nhau kiểu công thành chiếm đất, sát nhập quốc gia, đồng hóa hoặc diệt chủng dân tộc.Từ thời cận đại, các đế quốc phương Tây đã xâm lược khắp thế giới bằng chủ nghĩa thực dân cũ. Từ thời hiện đại thì vừa có thực dân cũ, vừa có thực dân mới, hoặc có những thuộc địa kiểu mới nhưng vẫn mang nhiều nét của thực dân cũ (như miền Nam Việt Nam giai đoạn 1964-1973). Nhìn chung, con người tiến hóa, thế giới tiến hóa, thì các thủ đoạn, cách thức, phương pháp xâm lược cũng “tiến hóa” theo. Ngày càng “nhẹ nhàng” hơn, tinh xảo hơn, dễ che đậy hơn.

Đó là nhìn sơ lược về lịch sử thế giới. Còn nếu nhìn cụ thể hơn về lịch sử Việt Nam, thì chúng ta vẫn thấy sự tương đồng. Mỗi thời kỳ lịch sử giặc xâm lược đều có những hình thức xâm lược khác nhau, và càng về sau thì càng tinh vi hơn.

Phong kiến Trung Hoa xâm lược Đại Việt, chiếm đất đai, sát nhập lãnh thổ Đại Việt vào Trung Hoa, biến đất Việt thành một phần của đất Tàu, biến Đại Việt thành một châu quận của họ. Và trong thời gian đô hộ thì không tồn tại triều đình người Việt, không có bộ máy hành chính người Việt, An Nam Đô Hộ Phủ do người Hán cai quản có tất cả quyền hành.

Thực dân Pháp chiếm hữu và trục lợi ở Đông Dương như một thuộc địa, nhưng trên danh nghĩa vẫn có vương quốc An Nam “độc lập”. Vẫn có triều đình Huế với các “hoàng đế” có ngai vàng nhưng không có thực quyền. Họ trực tiếp quản lý Việt Nam bằng Toàn quyền Đông Dương, và dưới trướng có rất nhiều cộng sự người Việt. Bộ máy hành chính người Việt được thành lập. Họ thiết lập một hệ thống ngụy quyền địa phương quy mô, rộng lớn, bao gồm những lực lượng ngụy binh (lính Nam triều, lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng, Quân đoàn Bộ binh Bắc Kỳ, lính Lê Dương gốc Việt, Quân đội Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này). Họ được huấn luyện chu đáo và chuyên nghiệp.

Cho thấy rằng Pháp cũng xâm lược, nhưng hình thức xâm lược, hình thức chiếm đóng, hình thức trục lợi là khác với phong kiến Trung Hoa. Pháp không chủ trương sát nhập Việt – Miên – Lào vào nước Pháp, mà chỉ muốn khai thác, bóc lột, vơ vét, xơ múi những lợi ích tài nguyên màu mỡ, những nguồn nhân lực, nô lệ, lao công phong phú.

Họ không cần sát nhập lãnh thổ, cướp đất đai trên danh nghĩa, thay vào đó, họ mị dân bằng những tuyên bố “bảo hộ” (bảo vệ) cho vương quốc An Nam. Họ cho người Pháp vào trực tiếp quản lý, trực tiếp nắm lấy. Và các cộng sự người Việt chỉ là loại thừa hành cấp thấp hoặc địa phương. Bộ máy trung ương do người Pháp quản lý.

Đế quốc Mỹ viện trợ và giúp đỡ Pháp tái chiếm Việt Nam thất bại, sau đó nhảy thẳng vào, và từng bước hất cẳng Pháp, thu nhận và nuôi dưỡng ngụy quyền và ngụy quân mà Pháp đã sử dụng và để lại. Thay tên đổi họ lại cho ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức lại, xây dựng mới, may vá lại, thay đổi một vài tay sai, giữ lại biểu tượng “quốc kỳ” và “quốc ca” (cờ vàng ba sọc đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” mà bọn tay sai Pháp đã lấy trái phép của nhạc sĩ Việt Minh Lưu Hữu Phước, đổi tên bài hát, cắt xén ca từ, xào nấu nội dung từ ca khúc cách mạng Tiếng Gọi Thanh Niên của tác giả).

Cách thức xâm lược của giặc ngoại xâm theo tiến trình lịch sử, theo sự tiến hóa của văn minh nhân loại, đã có sự thay đổi và “nâng cấp” theo thời gian, càng lúc càng mị dân và được ngụy trang tinh vi hơn.

Mỹ xâm lược Việt Nam là xâm lược kiểu thực dân mới. Theo đó, ông chủ đứng ngoài thu lợi, giám thị, kiểm soát. Còn phần quản lý thuộc trách nhiệm của ngụy quyền bản địa, từ địa phương đến trung ương. Giặc không trực tiếp bắt tay vào làm, quân đội chính quốc không cần trực tiếp ra tay như thực dân cũ.

Sự đô hộ thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam dễ ngụy trang hơn, do nó là cuộc xâm lược hình thức mới, thông qua ngụy quyền để kiểm soát miền Nam Việt Nam, khống chế khu vực và chiếm đoạt tài nguyên, trên danh nghĩa “tham chiến giúp đỡ đồng minh”. Chứ trên danh nghĩa họ không công khai gọi miền Nam Việt Nam là thuộc địa như thực dân Pháp, và cũng không chính thức sát nhập miền Nam Việt Nam vào liên bang Mỹ, trở thành một tiểu bang của Mỹ như họ đã làm với Oregon, Hawaii, Texas….

Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào lúc nào?

Mỹ chỉ hoàn toàn thua cuộc và buông hẳn Ngụy Sài Gòn từ sáng ngày 30/4/1975. Theo hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report (Báo cáo Hậu hành động) của thiếu tá lục quân James H. Kean, báo cáo các hành động của Lục quân Hoa Kỳ trong thời gian 17/4/1975 – 7/5/1975 và tác giả George R. Dunham trong tác phẩm US Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975), nằm trong loạt sách về lịch sử Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam, do Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ xuất bản năm 1990, tường thuật các hành động của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong giai đoạn 1973-1975, thì diễn biến như sau:

Ngày 30/4, Martin rời Việt Nam từ 4:58 sáng. 7 giờ sáng những quân nhân cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu rời khỏi Việt Nam. 7:53 sáng chiếc trực thăng chiến đấu cuối cùng của Mỹ chở 10 người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ bay khỏi Việt Nam và đáp xuống căn cứ quân sự USS Okinawa ở Nhật. Sau khi 10 người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, thì đến 11:30 trưa, Dương Văn Minh đầu hàng, ngụy quyền sụp đổ và ngụy quân tan rã. Hai tướng Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam là Fredrick C. Weyand và John Murray, 2 tướng này đã bỏ chạy khỏi Việt Nam ngay từ chiến dịch Mùa xuân 1975, trước chiến dịch Hồ Chí Minh.

oOo

Năm 1964, Mỹ lần lượt đưa 58 vạn quân vào miền Nam Việt Nam là để giữ cho chính quyền bù nhìn của họ khỏi bị sụp đổ. Sau này tổng thống Nixon thú nhận nếu lúc đó Mỹ không đem đại quân vào miền Nam Việt Nam thì chính quyền phục vụ cho họ chắc chắn sẽ sụp đổ. Đến năm 1972, quân Mỹ chết quá nhiều, nhất là sau năm 1968, cả thế giới, cả nước Mỹ và Lưỡng viện Mỹ kêu ca, áp lực, thúc ép, nội bộ chính quyền Mỹ mâu thuẫn trầm trọng, nên đành đốc thúc Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh, tính đến chuyện rút về để quân bản xứ đánh thay tiếp tục.

Bản chất cuộc chiến là xuyên suốt, không nên ngộ nhận rằng có cuộc chiến nào khác chỉ vì Mỹ “đem quân vào, rút quân ra”. Đây là một cuộc chiến xuyên suốt từ năm 1954 đến 1975. Đối với chính phủ Hoa Kỳ, chỉ có 1 Vietnam War chứ không có 2 hay 3 cuộc chiến tranh khác nhau.

Một vài bài báo hiện nay vì quá chú ý tuyên truyền tầm vóc vĩ đại của Điện Biên Phủ trên không, nên viết không khéo, dễ gây ngộ nhận rằng sau chiến dịch này Mỹ đã chấm dứt xâm lược, đã buông xuôi, đã không còn cai trị thực dân mới nữa, đã buông ra nước Việt Nam. Gây ngộ nhận rằng cuộc chiến 1954-1975 là có 2 cuộc chiến tranh khác nhau, và sau năm 1973 là “nội chiến”. Sự thiếu kỹ lưỡng này vô tình tạo cơ hội cho các thế lực phản động thừa cơ xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc bản chất cuộc chiến. Thiết nghĩ các ngành xuất bản, báo chí và ngành tuyên giáo nên để ý xem xét các trường hợp đó.

Có một thực tế rằng, các thế lực thực dân, đế quốc tuy đánh thua, chết nhiều lính nên mới ký hiệp định rút quân, nhưng bên trong họ không chịu thua mà bao giờ cũng vẫn cố thông qua ngụy quyền, tay sai bản xứ để tiếp tục xơ múi lợi ích thuộc địa. Cố bám víu quyền lực và quyền lợi, cố giữ vòi bạch tuộc đến phút cuối cùng mới thôi.

Trong trường hợp Pháp cũng như vậy, họ ký hiệp định Genève về Đông Dương rồi rút quân, nhưng vẫn cố thông qua các tay sai cũ để bám víu miền Nam Việt Nam. Trong thời điểm đó họ vẫn trả lương cho các thế lực quân phiệt, giáo phái và giang hồ ly khai, như Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên.

Mỹ muốn thanh toán nốt các tàn dư của Pháp, hoàn tất việc hất Pháp ra khỏi Đông Dương để mình vào thay hoàn toàn, nên đã “xử đẹp” các lực lượng ăn lương Pháp này. Như vậy, đến khi Mỹ hoàn thành việc hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam thì sự ảnh hưởng chính trị, kinh tế, quân sự của Pháp ở miền Nam mới chấm hết. Chứ rõ ràng không có chuyện tình nguyện ra đi.

Hoa Kỳ tiếng là rút quân năm 1972, nhưng vẫn để lại miền Nam hàng vạn “cố vấn”, những quân nhân mặc đồ dân sự, miền Nam vẫn đầy người Mỹ và vẫn do Mỹ kiểm soát, cuộc chiến vẫn do Mỹ chỉ đạo, cố bám víu đến phút chót mới thôi, chiếc trực thăng quân sự chở 10 lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam là vào rạng sáng ngày 30/4/1975.

Như vậy đã rõ ràng, Điện Biên Phủ trên không là một trận đại thắng oanh liệt, trận thắng đó đã mở ra một chương mới trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, là một bước ngoặt tích cực và thuận lợi hơn cho Việt Nam thực hiện các giải pháp hòa bình quy định trong hiệp định Paris hoặc trường hợp các bên kia lật lọng thì tiến tới đánh dứt điểm, giải phóng nốt những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam.

Chứ đó chưa phải là chiến thắng chung cuộc, và không có nghĩa Mỹ rút quân chính quy thì nghĩa là Mỹ thôi xâm lược, các đội quân bản xứ chiến đấu thay Mỹ vẫn còn đó. Chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, “thay màu da xác chết” của Mỹ vẫn còn đó.

Và càng không có nghĩa là Mỹ rút quân thì thời gian sau đó Mỹ-Thiệu trở nên hoàn toàn độc lập riêng biệt với nhau. Không có nghĩa là không còn người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Không có nghĩa nếu Mỹ buông ra là Thiệu có thể đứng vững hai chân. Không có nghĩa là lính Mỹ không có quay lại miền Nam Việt Nam. Thực tế ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn được Mỹ cưu mang, chỉ đạo chiến tranh, gắn bó máu thịt với nhau. Và miền Nam vẫn đầy người Mỹ, lần này mặc áo dân sự. Chỉ có 1 cuộc chiến tranh và cả Việt Nam và thế giới đều biết kết quả chung cuộc là ở năm 1975 chứ cuộc chiến không kết thúc chính thức ở năm 1973.

Miền Nam giai đoạn 1964-1973 là thực dân cũ hay mới?

Xưa nay quan điểm chính thống trong sách giáo khoa và các giáo trình lịch sử Việt Nam là: Thời Pháp là thực dân cũ, thời Mỹ là thực dân mới. Nhưng nhìn lại thì thấy trong giai đoạn 1964-1973 Mỹ đã đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Một hành động mà theo cách nói dí dỏm của nhà văn Chu Lai là: “Diễn viên quá tồi nên đạo diễn đành phải đích thân nhảy vào đóng thay.”

Nguyên tắc của thực dân cũ là “trực tiếp săn tay áo vào làm”, đưa thực binh vào, trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo, quản lý. Nguyên tắc của thực dân mới là “đứng ngoài lãnh đạo và hưởng lợi nhuận”, không đưa thực binh vào mà dùng quân lực bản địa để chiến đấu thay cho mình, thay màu da xác chết. Người chủ đứng ngoài lãnh đạo, chỉ đạo chung, trả tiền, nuôi dưỡng, không trực tiếp quản lý và chiến đấu.

Thế nhưng trong giai đoạn 1964-1973, Mỹ đã lần lượt đưa trên 55 vạn quân viễn chinh tràn vào Nam Việt Nam, gấp 3 lần quân số của thực dân Pháp trong chiến tranh Pháp – Việt. Người Mỹ trực tiếp chỉ huy, ra lệnh, quản lý, kiểm soát chặt chẽ sâu sát, và đồng thời trực tiếp thân chinh chiến đấu.

Trong thời gian này, người Mỹ, chính trị gia Mỹ, đại quân Mỹ có mặt ở đầy miền Nam Việt Nam và làm cho sinh ra khoảng nửa triệu con lai Mỹ. Trong khi suốt gần 100 năm Pháp thuộc, thời thực dân cũ, cũng chưa thấy tài liệu nào nói tới số lượng con lai Pháp nhiều đến như vậy. Vậy thì giai đoạn 1964-1973 này có khác bao nhiêu so với chế độ thuộc địa của Pháp trước đây? Trong khi ở một số trường hợp mức độ còn khủng khiếp hơn.

Từ những cơ sở trên, có thể tạm kết rằng trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn 1964-1973 là giai đoạn mang tính chất thực dân cũ. 2 giai đoạn kia, trước năm 1964 và sau năm 1973, thì mới hoàn toàn đúng nghĩa là thực dân mới. Thiết nghĩ giới sử học cũng nên nghiên cứu kỹ các yếu tố này.

Hot!

© Đạo Sĩ Chăn Gà

😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍