Trong thời chống Mỹ cứu nước, vùng tạm chiếm Hoàng Sa (hay Trường Sa) và Côn Đảo (hay Phú Quốc) khác nhau điểm nào?

Côn Đảo được sử dụng làm một trại tù, và với mức độ tàn ác ở đây nên nó được ví như là một địa ngục trần gian. Hoàng Sa không được sử dụng cho việc đó. Côn Đảo có dân sống. Hoàng Sa không có dân sống. Côn Đảo gần đất liền Việt Nam hơn Hoàng Sa.

Có thế thôi!

Giả sử năm 1974 Trung Quốc đưa quân đánh vào Côn Đảo, rồi quân ngụy, bao gồm bọn cai ngục Côn Đảo đánh với binh lính Trung Quốc, vậy thì phải chăng quân ngụy ở Côn Đảo đã “bảo vệ quốc gia” và là những “anh hùng giữ đảo” như báo Thanh Niên và một ít báo điện tử khác viết về hải chiến Hoàng Sa với phong cách tương tự?

Khi đó liệu một số “lều báo” này có đòi hỏi phải ca ngợi, vinh danh các anh hùng bảo vệ Côn Đảo chiến đấu “vì quốc gia”, phải kỷ niệm “hải chiến Côn Đảo” hay không?

Thời kỳ đầu chống Pháp, tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh đã gởi mật sớ lên triều đình nhà Thanh, có đoạn ghi rằng: “Nước Nam và nước ta tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía Bắc sông Hồng Hà”. Sau đó, nhà Thanh sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang Việt Nam chiếm đóng Bắc Ninh và Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.

Nhưng sau đó, với vũ khí tốt hơn, hỏa lực mạnh hơn, trình độ tác chiến chuyên nghiệp hơn, kế hoạch tác chiến khoa học hơn, mấy trăm quân Pháp, sĩ quan Pháp, và mấy vạn lính khố xanh, khố đỏ và các tướng Nam Triều (phe triều Nguyễn chủ hàng) đã đánh bại liên quân Trung Quốc (nhà Thanh – Cờ Đen) và phe triều Nguyễn chủ chiến. Và nhờ thế Bắc Ninh và Sơn Tây không bị mất về tay Trung Hoa, vẫn là đất của Việt Nam đến nay.

Như vậy phải chăng nên ca ngợi, vinh danh những người lính khố xanh, khố đỏ, những người lính ngụy của Pháp chiến đấu “trong nỗ lực bảo vệ miền Bắc VN”, “vì quốc gia”, như giọng điệu của báo Thanh Niên và một vài báo điện tử khác? Phải chăng nên kỷ niệm sự kiện này?

Các sự kiện sau đó đã có diễn biến khác, sau một cuộc chiến thì Việt Nam tiếp tục bị Pháp chia cắt và cai trị, sau cuộc chiến kia thì Việt Nam được thống nhất và giải phóng. Một ông thực dân cũ. Một anh thực dân mới.

Có lẽ vì diễn biến hậu chiến khác nên sinh ra những nhận thức khác nhau cho hai hiện tượng có cùng một bản chất này. Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng tính phỗng tay trên Bắc Ninh và Sơn Tây trong cuộc chiến tranh giữa quân dân Việt Nam với Pháp. Ngụy Minh Sâm, Trương Nguyên Bồi định phỗng tay trên phía tây Hoàng Sa trong cuộc chiến tranh giữa Việt Nam với Mỹ.

Ngày 19/1/1974, có một cuộc xung đột 15-20 phút (theo đại úy quân đội Sài Gòn Trần Kim Diệp ở Paris trong hồi ức “Bên lề trận hải chiến Hoàng Sa”, sĩ quan tình báo cạnh đại tá quân đội Sài Gòn Hà Văn Ngạc trong trận chiến) đã xảy ra giữa 4 tàu dò mìn Trung Quốc và một bộ phận hải quân Sài Gòn ở tây Hoàng Sa. Còn vì sao nói “một bộ phận” thì loạt bài này sẽ nói sâu hơn ở những kỳ sau. Khối Chiến tranh chính trị của “Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa”, một bộ phận chiến tranh tâm lý của chính quyền Sài Gòn gọi cuộc xung đột quân sự này là “hải chiến Hoàng Sa”.

Ngay ngày hôm sau (20/1/1974), chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra bản tuyên bố phản đối hành động này của Trung Quốc và xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 26/1/1974, chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam và tiếp tục tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ.

Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố phản đối và xác nhận chủ quyền là vì kể từ năm 1969 thì chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập để phá giải trò ảo thuật “2 chọi 1”, “lấy thịt đè người” của đế quốc Mỹ trên bình diện pháp lý quốc tế và “điều này xuất phát từ nhu cầu thực tế cần một chính phủ thống nhất tạm thời ở miền Nam để thay thế cho các chính quyền dân cử địa phương, các cơ quan tự quản từ các cấp xã, thôn, tỉnh, vốn trước đó đã được dân địa phương thành lập để thay thế các bộ phận hành chính con rối của Mỹ, để giải quyết việc hành chính trong những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam” (nhà nghiên cứu sử học L.V. Kotov trong bài nghiên cứu American Aggression in Vietnam [Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam] trên Bách khoa thư Farlex).

Từ đó, theo luật pháp, đạo lý và lòng dân Việt Nam, chính phủ này là đại diện hợp pháp và duy nhất của miền Nam Việt Nam. Trước đó, khi chưa có chính phủ mà chỉ mới có Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì Bác Hồ, Đảng và Quốc hội Việt Nam cũng đã khẳng định mặt trận là đại diện chân chính và duy nhất của miền Nam VN.

Trong thơ chủ tịch Hồ Chí Minh gởi luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhân dịp Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam công bố bản Cương lĩnh chính trị năm 1967, Người viết:

Bảy nǎm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mặt trận, đồng bào và chiến sĩ miền Nam anh hùng đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu dũng cảm, đã đập tan mọi kế hoạch xâm lược của kẻ thù. Hơn một triệu quân Mỹ, quân nguỵ và quân chư hầu bị giáng những vố nặng nề. Giặc Mỹ đang thất bại và bế tắc. Trên đà thắng lợi, quân và dân miền Nam đang dồn dập tiến công địch về mọi mặt và ở khắp mọi nơi. Những thắng lợi vẻ vang đó ngày càng củng cố và nâng cao ở trong nước và trên thế giới uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam. Dân tộc Việt Nam ta, Tổ quốc Việt Nam ta rất tự hào về miền Nam anh hùng, thành đồng của Tổ quốc.

Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa III, trong bài phát biểu, Hồ chủ tịch nói:

Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng, người đại diện chân chính và duy nhất của nhân dân miền Nam, đồng bào và chiến sĩ miền Nam anh hùng đang tiến lên giành những thắng lợi ngày càng to lớn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.

Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ ba sau đó của Quốc hội khóa III, chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

Để chấm dứt cuộc chiến tranh này, giải pháp duy nhất đúng đắn đã được nêu rõ trong bức thư tôi gửi cho nhiều vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ của nhiều nước. Giải pháp duy nhất đúng đắn đó cũng được nêu rõ trong Bản Tuyên bố 5 điểm của, Mặt trận dân tộc giải phóng, người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Đây cũng là câu trả lời dành cho những kẻ chống phá Việt Nam lâu nay hay tuyên truyền ngu dốt rằng “tại sao Hà Nội không phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa”.

Trong khi chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam ngay ngày hôm sau đã tuyên bố phản đối hành động xâm lược chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc, thì “không hiểu vì lý do nào đó” mà đến gần 1 tháng sau hải chiến Hoàng Sa, ngày 14/2/1974 thì chính quyền Thiệu mới ra tuyên bố phản đối hành động này của Trung Quốc. Quân đội Sài Gòn là quân đội trực tiếp tham chiến, thì đáng lý ra ngay sau đó họ phải ra tuyên bố phản đối ngay lập tức.

Nhưng bản tuyên cáo của chính quyền Sài Gòn lại không nói gì về chủ quyền của Việt Nam, vốn dĩ có thể tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho các công tác chủ quyền của các chính thể Việt Nam tương lai, mà tương lai gần ở đây chính là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bản tuyên cáo về chủ quyền chỉ có những từ “chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa”, “HS-TS của VNCH”, “lãnh thổ VNCH”, “nhân dân VNCH”….

Như vậy, nếu nhìn nhận “Việt Nam Cộng hòa” như là một quốc gia, là một quốc gia “độc lập”, “có chủ quyền”, dĩ nhiên điều đó là không đúng với thực tế, “VNCH” không hề độc lập với chính phủ Mỹ và cũng không hề có chủ quyền thực tế (quyền làm chủ thật sự), nhưng nếu nhìn nhận nó là một “quốc gia” thì trước hết điều đó có nghĩa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia bên ngoài xâm lược thôn tính một quốc gia khác, và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là kẻ phiến loạn, Quân đội Nhân dân Việt Nam là một đội quân xâm lược, quân Giải phóng là phiến quân. Như vậy là vừa xuyên tạc lịch sử, vừa có thể gây khó khăn cho chủ quyền của CHXHCN Việt Nam, là thừa kế của VNDCCH và CHMNVN.

Nếu cố gắng lừa dối bản thân rằng “VNCH” là một quốc gia, thì làm cách nào chuyển giao “chủ quyền” danh nghĩa của chính quyền Sài Gòn về tay CHXHCN Việt Nam, làm cho nó trở thành chủ quyền của CHXHCNVN? Rất khó! Bởi vì kiểu nào cũng nói không xuôi: Nếu lập luận rằng chính quyền Sài Gòn đã bàn giao chính quyền lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, vì vậy Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa cho CHXHCN Việt Nam, thì cũng không ổn.

Thứ nhất: Thực tế không hề có một cuộc bàn giao chính quyền hay bàn giao quyền lực nào cả. Như đại úy Phạm Xuân Thệ đã tuyên bố tại dinh tổng thống ngụy quyền: “Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Các ông không còn gì để bàn giao”.

Thứ hai: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không kết thúc bằng một cuộc đầu hàng thật sự và sau đó bàn giao chính quyền, mà kết thúc bằng một chiến dịch quân sự và giành lại chính quyền, theo cách nói khi đó là “cướp chính quyền”, dĩ nhiên cướp ở đây là cướp lại chính quyền từ tay Mỹ.

Ngụy quyền chỉ đầu hàng trong sự thoi thóp sau khi ngụy quân đã tháo chạy và sắp tan rã, và họ không còn năng lực chống trả. Sự làm chủ hoàn toàn miền Nam của VNDCCH và CHMNVN là thành quả của một chiến dịch quân sự, một biện pháp vũ lực, sử dụng quân đội và các lực lượng vũ trang và giành chiến thắng, chứ không phải là từ một sự đầu hàng tự nguyện và sát nhập hòa bình. Khi đó ở Sài Gòn có rất nhiều phóng viên chiến trường quốc tế và ai cũng thấy được chuyện gì đã diễn ra.

Thứ ba: Đặt giả thuyết có thể miễn cưỡng coi như là “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng thì có thể tạm coi là “bàn giao chính quyền”, thì nó vẫn chỉ có giá trị ở những vùng mà ngụy quân phụ trách kiểm soát và ngụy quyền phụ trách quản lý thay cho Mỹ. Hoàng Sa lúc đó ở ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Dương Văn Minh, mà lúc đó đang do Trung Quốc chiếm đóng, kiểm soát, quản lý.

Bà Monique Chemillier-Gendreau, nữ giáo sư thạc sĩ ngành công pháp và chính trị học của trường Đại học Paris VII – Denis Diderot của Pháp, trong một tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa, đã ghi nhận: “Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được….” Năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn không kiểm soát, quản lý Hoàng Sa. Do đó họ không thể chuyển nhượng hay bàn giao chủ quyền đối với Hoàng Sa lại cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Như vậy, bản tuyên cáo của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu khi đó chỉ có tác dụng, hiệu quả thực tế và rõ ràng trong điều kiện chính quyền Sài Gòn còn tồn tại. Và năm 1974, khả năng chính quyền này tồn tại là không cao, và sau đó là thấp dần, yếu dần, suy sụp dần. Sau đó Mỹ cắt giảm mạnh viện trợ. Vậy thì phải chăng “ai đó” đã dàn dựng mọi thứ, có bàn tay nào đó sắp đặt mọi thứ nhằm mục đích biếu Hoàng Sa cho Trung Quốc?

Cũng xin lưu ý là trong sự kiện này Trung Quốc đã chiếm những phần còn lại của Hoàng Sa. Thật ra cuối năm 1956, Trung Quốc đã chiếm giữ toàn bộ phía đông quần đảo Hoàng Sa, bao gồm hai đảo lớn nhất của Hoàng Sa là Phú Lâm và Linh Côn ngay trước mặt Mỹ-ngụy (Diệm). Ngụy quyền im lặng, không ra tuyên cáo phản đối.

Do đó, nhiều dư luận và quan điểm đã nhận thức rằng sự kiện Hoàng Sa năm 1974 là một sự kiện Trung Quốc tiếp nhận nốt phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa từ tay Mỹ, theo thỏa thuận sau hậu trường giữa Mỹ và Trung Quốc từ năm 1972, sau khi phần phía đông của quần đảo HS đã được Mỹ giao cho Trung Quốc từ năm 1956 để “trả công” việc Trung Quốc phản bội Việt Nam và Liên Xô trong hội nghị Genève về Đông Dương, đưa đến việc Việt Nam tạm thời bị chia làm hai vùng tập kết quân sự và hai vùng quản lý, kiểm soát trong 2 năm.

Và chuyện vinh danh quân đội Sài Gòn là một sự xuyên tạc cào bằng lịch sử, xét bậy lại lịch sử, nhằm “rửa mặt” cho Mỹ-ngụy, chạy tội cướp nước của Mỹ, chạy tội bán nước của ngụy, cũng như để hợp thức hóa cho cuộc xâm lược của họ.

Chuyện đó còn nhằm kiếm cớ để hợp pháp hóa, chính danh hóa, chính nghĩa hóa chính quyền bù nhìn ngụy Sài Gòn, là một chính quyền tay sai do giặc xâm lược Pháp dùng súng đạn dựng lên vào năm 1949 trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954.

Trong thời kỳ ở miền Nam Việt Nam chỉ còn lại 1 mình Mỹ và Việt Nam kháng chiến chống Mỹ xâm lược 1954-1975, Mỹ đã nuôi dưỡng và lãnh đạo các ngụy quyền này trên lãnh thổ phía Nam của nước Việt Nam cho đến năm 1975, trong đó bao gồm Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Hoàng Sa.

Xin lưu ý rằng tuy tên gọi có khác nhau, nhưng “Quốc gia Việt Nam” và “Việt Nam Cộng hòa” chỉ là 1! Bản chất, nhân sự, thiết kế, cấu trúc, “quốc kỳ”, “quốc ca” không khác gì nhau. Họ chỉ khác nhau ở tên gọi và con rối đứng đầu. Cũng như “Đệ nhất cộng hòa” và “Đệ nhị cộng hòa” không có gì khác nhau, chỉ khác nhau ở con rối đứng đầu.

Không có sự khác nhau nhiều giữa Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu. Nếu có khác chăng là Bảo Đại trung thành với Pháp hơn trung thành với Mỹ, Ngô Đình Diệm trung với Vatican hơn trung với Mỹ, thì kết quả như thế nào mọi người đã thấy. Ông Thiệu trung trinh, tận tụy với Mỹ, nghe lời Mỹ nhất nên cầm quyền lâu dài nhất. Lần “bầu cử” nào ông ta cũng “đắc cử”, và không bị ai “đảo chính”. Nói chung, họ chính là ngụy quân, ngụy quyền tay sai Pháp sau này được Mỹ sử dụng lại.

(còn tiếp)


Nguồn: © Thiếu Long

© Đạo Sĩ Chăn Gà

😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍