Lịch sử Nhật Bản cho thấy một ví dụ gây hấn nổi bật của Vatican. Đối với Trung Quốc và Thái Lan, chính sách cơ bản cho thấy thương nhân Ca-tô Rô-ma giáo và linh mục Ca-tô Rô-ma giáo làm việc cùng nhau, để cùng mở rộng lợi ích cho cả hai. Để đạt mục tiêu, việc mở rộng Giáo Hội Ca-tô Rô-ma giáo lúc nào cũng rất cần thiết.

Trái ngược với niềm tin thông thường, khi lần đầu tiên tiếp xúc với Tây Phương, Nhật Bản rất háo hức trao đổi ý tưởng của họ, như thương mại và hàng hóa. Từ cuộc đổ bộ đầu tiên của người Bồ Đào Nha vào nước Nhật, thương nhân nước ngoài được khuyến khích cập bến hải cảng Nhật. Giới chức thống trị địa phương của Nhật thảo luận với nhau mở cửa Nhật Bản để thương nhân Tây Phương tới lui buôn bán. Các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo cũng được tiếp đón như như các thương nhân, và đức tin Ca-tô Rô-ma giáo cũng được thiết lập tại vùng đất mới.

Các nhà truyền giáo còn được sự bảo vệ của một lãnh chúa mạnh mẽ là Nobunaga, một nhà độc tài quân phiệt Nhật Bản, trong thời gian từ năm 1573 tới năm 1582. Nhà độc tài này cùng lúc cũng để tâm kiểm soát sức mạnh chính trị của một phong trào quân nhân Phật Tử cùng với sự quảng đại đối với những người Ca-tô Rô-ma giáo mới tới. Ông khuyến khích người Ca-tô Rô-ma giáo mới tới bằng cách cho họ quyền truyền bá tôn giáo trên lãnh thổ của ông. Ông tặng họ đất ở Kyoto, và thậm chí còn hứa hẹn bảo trợ hàng năm. Nhờ vậy, chưa bao giời người Ca-tô Rô-ma giáo có một cơ hội lan tràn khắp nước như lần này. Hàng ngàn người đã chuyển đạo sang Ca-tô Rô-ma giáo. Nhiều trung tâm Ca-tô Rô-ma giáo được thiết lập hoặc mở rộng.

Có phải các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo đã được một đặc ân giảng dạy giáo lý tôn giáo của mình một cách bình đẳng? Có phải đây là một phần thưởng tinh thần to lớn của Nhật đối với người Ca-tô Rô-ma giáo? Sự thật hiển nhiên cho thấy một khi người Ca-tô Rô-ma giáo được đặt ân để trở thành một cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo to lớn, Vatican bắt đầu thiết lập một hệ thống lấn lướt và thống trị bằng vũ lực. Như người ta đã thấy một cách rõ ràng, Những người Nhật Bản chuyển đạo không còn là những người dân Nhật Bản bình thường nữa, mà đã trở thành những người dân của Giáo Hoàng, dưới sự điều động của Giáo Hoàng. Một khi họ đã chuyển đạo, sự trung thành với đất nước Nhật của họ bị biến mất, họ tự động trở thành những người rất nguy hiểm cho sự sống còn của đất nước Nhật Bản.

Đức mẹ đồng trinh kiểu Nhật.

Đúng vậy! Điều này rất rõ ràng và sẽ mang lại nguy hiểm nghiêm trọng cho an ninh bên trong cũng như bên ngoài của đế quốc Nhật Bản. Đứng về phía các lãnh vực bên trong, Ca-tô Rô-ma giáo sẽ không khoan dung bất cứ một tôn giáo nào khác, bởi vì người Ca-tô Rô-ma giáo cho rằng chỉ có đạo Ca-tô Rô-ma giáo là một “chánh đạo”, tất cả các đạo khác đều là “tà đạo”. Điều này, tất nhiên sẽ đưa tới một cuộc nội chiến. Đứng về phía các lĩnh vực bên ngoài, bằng cách làm theo chỉ thị của các nhà truyền giáo nước ngoài, dĩ nhiên ưu tiên sẽ dành cho người nước ngoài mà không có lợi ích thương mại gì cho người bản xứ, trong khi sự xâm nhập chính trị và quân sự là một tai hoạ, nhất là trong thời kỳ tìm kiếm thuộc địa của các đế quốc Âu Châu.

Sau nhiều năm mở rộng cửa cho các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo, Nhật Bản bắt đầu nhận ra rằng giáo hội Ca-tô Rô-ma giáo không chỉ là một tôn giáo, nhưng cũng là một quyền lực chính trị kết nối với sự mở rộng của các quốc gia Ca-tô Rô-ma giáo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, và một số các quốc gia Tây Phương khác. Nguyên lý bất chính của Ca-tô Rô-ma giáo cho rằng chỉ có Ca-tô Rô-ma giáo là một chánh đạo duy nhất trong khi tất cả các đạo giáo khác đều là tà đạo đã bắt đầu cho ra bông ra trái. Bất cứ nơi nào người Nhật được chuyển đạo thành người Ca-tô Rô-ma giáo một cách rộng rãi, nơi đó có sự bất khoan dung của người Ca-tô Rô-ma giáo.

Bất cứ vùng nào người Ca-tô Rô-ma giáo Nhật Bản trở thành đa số, tín đồ Phật Giáo luôn bị người Ca-tô Rô-ma giáo chèn ép. Không những các chùa Phật Giáo bị tẩy chay, mà các chùa còn bị đóng cửa, bị tước đoạt, hoặc bị chuyển đổi thành nhà thờ Ca-tô Rô-ma giáo. Có rất nhiều trường hợp người Phật Giáo bị ép buộc phải bỏ đạo của mình để theo đạo Ca-tô Rô-ma giáo. Nếu họ từ chối thì kết quả sẽ là mất tài sản, và thậm chí còn mất cả tính mạng. Đối diện với các hành vi này, thái độ khoan dung của những người cầm quyền Nhật Bản cũng đã bắt đầu thay đổi.

Ngoài việc xung đột nội bộ, các tham vọng chính trị của các Đế Quốc Ca-tô Rô-ma giáo ngoại quốc bắt đầu trình bày thái độ không khoan dung của họ đối với những người cai trị Nhật Bản, là không thể bỏ qua. Vatican, vào một buổi điều trần về sự thành công của Ca-tô Rô-ma giáo ở một miền đất xa xôi, đã phát động kế hoạch của họ cho một sự thống trị chính trị. Như sự quen thuộc mà họ đã từng làm, họ sẽ sử dụng các nhà truyền giáo của giáo hội, cùng với sức mạnh quân sự đồng minh giữa các quốc gia Ca-tô Rô-ma giáo. Đây là những người có đầy nhiệt tâm mang thánh giá; đầy nhiệt tâm cho chủ quyền của Giáo Hoàng; đầy nhiệt tâm cho lợi ích thương mại; và đầy nhiệt tâm về sự chinh phục quân sự trong cùng một tàu chiến.

Vatican luôn luôn theo cùng một công thức chính trị xâm nhập này kể từ khi phát hiện ra châu Mỹ. Nhiều Giáo Hoàng, bao gồm Giáo Hoàng Leo X, đã ban bố, đã khuyến khích, mà thực ra, là hợp thức hoá tất cả các cuộc chinh phục các lãnh thổ bị chiếm đóng bởi người Ca-tô Rô-ma giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Viễn Đông. Dẫn đầu trong số đó là Alexander VI, với các khoản trợ cấp của Tây Ban Nha chiếm quyền sở hữu của tất cả các “đất đai và đảo tìm thấy tại Ấn Độ, hoặc tại bất cứ nơi nào”. Nhật Bản được liệt kê là một trong những món quà của Giáo Hoàng mà Thượng Đế ban cho hai đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.

Vì vậy cho nên, khi cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo Nhật Bản đã trở thành mạnh mẽ, đủ để hỗ trợ quyền lực thế tục Ca-tô Rô-ma giáo, Vatican đã bước một bước đầu tiên quan trọng trong chiến thuật chính trị tầm xa, đó là sử dụng các cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo ở Nhật như là một công cụ chính trị để tiến hành chinh phục vùng đất mới. Để thực hiện chính sách này, năm 1579, Vatican gửi một nhà truyền giáo Dòng Tên (Jesuits) tên là Valignani, đến để tổ chức một loạt nhà thờ Nhật Bản trên những hòn đảo nhỏ của Nhật. Dĩ nhiên trong thời gian Valignani thiết kế các nhà thờ, Valignani bị theo dõi ngầm để bảo đảm việc làm là thuần tuý tôn giáo, và Valignani cũng được hỗ trợ của nhiều hoàng tử Nhật như Omura, Arima, Bungo, và nhiều người khác. Họ đã lập thành một “tỉnh Ca-tô Rô-ma giáo” với sự trợ giúp của các sinh viên, bệnh viện, và chủng viện, nơi thanh thiếu niên Nhật được huấn luyện về thần học, về chính trị, về văn chương, và về khoa học.

Sau khi xâm nhập đủ sâu vào các lãnh vực tôn giáo, giáo dục, và các cấu trúc xã hội, ở các tỉnh của các hoàng tử, Valignani bước thêm một bước thứ hai, là thuyết phục lập một phái đoàn ngoại giao chính thức tới gặp Giáo Hoàng. Khi phái đoàn trở lại Nhật năm 1590, tình hình đã thay đổi đáng kể. Hideyoshi, một lãnh chúa mới của Nhật, ý thức rất sâu sắc những tác động chính trị của Ca-tô Rô-ma giáo và sự liên kết của họ với các thế lực chính trị tôn giáo xa xôi Tây Phương, như là Giáo Hoàng. Ông quyết định thống nhất với Phật Giáo, không phục vụ chính trị cho bất cứ một hoàng tử nào bên ngoài lãnh thổ của ông.

Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi, vẽ năm 1601

Năm 1587, Hideyoshi viếng thăm đảo Kyushu và đã ngạc nhiên tìm thấy cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo trên đảo này đã thực hiện các cuộc đàn áp tôn giáo kinh khủng. Ở khắp mọi nơi, ông thấy những tàn tích của các ngôi chùa Phật Giáo và các Tượng Phật bị sứt mẻ hư hỏng. Ông thấy rất rõ người Ca-tô Rô-ma giáo, trên thực tế, đã buộc phải cố gắng làm cho toàn bộ hòn đảo Kyushu bị “Ca-tô Rô-ma giáo hoá” hoàn toàn.

Trong cơn phẫn nộ, Hideyoshi lên án các cuộc tấn công của Ca-tô Rô-ma giáo vào Phật Giáo; sự không khoan dung các tôn giáo khác của Ca-tô Rô-ma giáo; sự liên hiệp chính trị của Ca-tô Rô-ma giáo với các thế lực ngoại bang; và các thực tế khác như phá hoại… rồi ông kỳ hạn cho cho người Ca-tô Rô-ma giáo trong vòng hai mươi ngày phải rời khỏi Nhật. Nhà thờ và tu viện của người Ca-tô Rô-ma giáo tại Kyoto và Osaka được lệnh kéo sập khi Phật Tử bị tấn công, và quân đội cũng được gửi đến Kyushu.

Các biện pháp chỉ thành công có một phần vì Ca-tô Rô-ma giáo đã xâm nhập quá sâu vào xã hội. Năm 1614, tất cả linh mục Ca-tô Rô-ma giáo nước ngoài được lệnh phải rời khỏi Nhật thêm một lần nữa. Lệnh trục xuất được ban ra bởi một vấn đề nghiêm trọng: Các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo, bên cạnh chăm sóc sự bất khoan dung tôn giáo giữa người Nhật, đã bắt đầu mở một cuộc chiến cay đắng với nhau. Cãi cọ giữa giữa những người Jesuits và Franciscans đã tự chia đôi cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo của họ. Những mối hận thù trở thành rất nguy hiểm cho đến nỗi các giới chức chính quyền Nhật Bản sợ họ sẽ dẫn đến nội chiến. Nhật Bản cũng thấy nội chiến thế nào cũng sẽ lôi kéo sự can thiệp quân sự của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sự tham gia của quân đội nước ngoài là một mối lo rất lớn cho nền độc lập của Nhật Bản.

Sợ hãi này có phải là một sự phóng đại hay không? Sự phát triển của Ca-tô Rô-ma giáo Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã có thể chứng minh rằng nguy cơ là một thực tế. Sự xâm nhập của Franciscans đã biến Philippines thành thuộc địa năm 1593 khiến cho Hideyoshi không thể không cảnh giác. Các tu sĩ dòng Francisciscans bỏ ngoài tai mọi thứ, xây dựng nhà thờ và cải đạo tại Kyoto và Osaka, bất chấp các cơ quan của nhà nước. Vấn đề rất phức tạp, họ bắt đầu cãi vã và dùng bạo lực với dòng Jesuits. Những điều Hideyoshi nỗ lực tìm hiểu tuy nhỏ nhưng rất đáng chú ý.

Năm 1596 một thuyền buồm Tây Ban Nha, chiếc San Felipe, bị đắm ngoài khơi tỉnh Tosa. Hideyoshi ra lệnh tịch thu chiếc tàu và hàng hóa trên tàu. Vì tức giận, viên đại tá Hải Quân Tây Ban Nha, vì muốn gây ấn tượng hoặc đe dọa các quan chức Nhật Bản, đã đưa ra một trong nhiều cách Tây Ban Nha đã chiếm nhiều thuộc địa trên thế giới. Bằng chứng mà viên thuyền trưởng cho các giới chức Nhật thấy, là một bản đồ của tất cả các thuộc địa do Tây Ban Nha chiếm trên thế giới.

…Nhưng giờ đây, trong số những người trẻ chỉ có sinh viên và giáo viên hát thánh ca. “Chẳng ai theo cả”, đức cha Tomeichi Ohoka 85 tuổi than phiền. “Tôi lo buồn khi nghĩ về tương lai, và không dám chắc đạo Cơ đốc có còn tồn tại ở đây không nữa”.
—–
Trích “Đạo Thiên chúa héo tàn dần ở nước mặt trời mọc”

Các quan chức Nhật ngạc nhiên hỏi làm thế nào mà Tây Ban Nha đã có thể chiếm được rất nhiều đất đai ở nhiều chỗ khác nhau? Đại tá Hải quân Tây Ban Nha tự hào đáp là Nhật Bản sẽ không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha, chỉ đơn giản là bởi vì Nhật Bản không có các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo. Ông khẳng định rằng tất cả các lãnh thổ Tây Ban Nha đã được chiếm đoạt bằng cách trước nhất là gởi các ngà truyền giáo tới để cải đạo người địa phương, rồi sau đó Tây Ban Nha sẽ gởi quân tới để chiếm đất, với sự trợ giúp của các con chiên cải đạo.

Khi chuyện này được báo cáo lên Hideyoshi, sự tức giận của Hideyoshi không còn có thể kềm chế được nữa. Những nghi ngờ của ông về việc sử dụng các nhà truyền giáo như là một nấc thang đầu tiên cho cuộc chinh phục thuộc địa, được xác nhận một cách trắng trợn. Ông nhận ra ngay mô hình đánh chiếm thuộc địa một cách khôn ngoan đã lọt vào bên trong chính quyền đế chế của ông.

26 nhà truyền giáo bị tử hình ở Nagasaki – Nhật.

Năm 1597 cả hai dòng Phanxicô lẫn Dominican bị cấm. Hai mươi sáu linh mục đã được tập họp tại Nagaski và bị hành quyết để tuyệt đối ngăn cấm và làm gương cho các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo. Năm 1598, Hideyoshi qua đời, và Ca-tô Rô-ma giáo được tiếp tục trở lại với các Đoàn Tông Đồ (Vigors) cho đến khi Ieyasu lên nắm quyền vào năm 1616. Ieyasu còn cấm đạo gay gắt hơn người tiền nhiệm của ông. Một lần nữa, dưới triều Ieyasu, các nhà truyền giáo Ca-tô Rô-ma giáo được lệnh phải rời khỏi nước Nhật, và hình phạt “chém đầu” được đưa ra cho người Nhật nào không chịu từ bỏ đạo Ca-tô Rô-ma giáo.

Lệnh cấm gây thành bạo động năm 1624 dưới thời Jemitsu (1623-1651), khi tất cả các thương gia và các nhà truyền giáo Tây Ban Nha được lệnh lập tức rời khỏi nước Nhật. Các con chiên Nhật Bản bị cấm không được đi theo các nhà truyền giáo, và các thương gia Nhật cũng không được buôn bán với người Ca-tô Rô-ma giáo.

Để chắc chắn rằng các chỉ dụ này được tôn trọng và tuân hành, tất cả các tàu có sức chở hơn 2.500 giạ lúa (bushel) sẽ bị phá phá hũy. Để dập tắt đạo Ca-tô Rô-ma tại Nhật. Jemitsu ra sắc lệnh năm 1633, 1634 và năm 1637, hoàn toàn cấm tất cả các đạo nước ngoài truyền bá trên các quần đảo Nhật Bản. Tại thời điểm này, người Ca-tô Rô-ma giáo Nhật Bản cũng bắt đầu tổ chức phản kháng một cách bạo động. Phản kháng nổ ra vào mùa Đông năm 1637 tại Shimbara và trên các đảo nhỏ lân cận đảo Amakusa. Người trong các khu vực này hoàn toàn là người Ca-tô Rô-ma giáo, đa số là tự nguyện vào đạo, trừ một số ít bị bắt buộc cải đạo. Lãnh đạo của nhóm này do các linh mục Tây Phương, các cộng đồng Ca-tô Rô-ma giáo bắt đầu trang bị vũ khí và tổ chức thành quân đội để chiến đấu chống lại chính quyền Nhật Bản. Chống lại chính quyền Nhật Bản là để lộ một cuộc “chiến tranh tôn giáo” một cách trắng trợn.

Vì sợ các người Ca-tô Rô-ma giáo có thể bị sử dụng như một công cụ của các quốc gia Ca-tô Rô-ma giáo Tây Phương xâm chiếm Nhật làm thuộc địa, Nhật đã đánh thuế người Ca-tô Rô-ma giáo tới mức tối đa mà họ không đóng nổi. Những người Dòng Tên (Jesuits), trong khi đó, đã chuẩn bị kháng chiến, đã thiết lập được một đội quân Ca-tô Rô-ma giáo 30.000 quân, mang các hiệu kỳ Giêsu, Maria, và St. Iago, tung bay trước đoàn quân.

Họ mở cuộc tấn công chống lại chánh phủ Nhật Hoàng, đánh những trận đẫm máu dọc theo mũi Shimbara gần Vịnh Nagasaki. Sau khi giết chết viên thống đốc trung thành của Nhật là Shimbara, đội quân Ca-tô Rô-ma giáo này còn đóng kín trong các pháo đài và đã thành công chống lại súng ống và tàu chiến Nhật Hoàng. Nhật Hoàng yêu cầu người Tin Lành Hoà Lan cho thuê tàu lớn để đủ sức chở các khẩu pháo hạng nặng cần thiết. Người Hoà Lan đã đồng ý, và Nhật đã có thể bắn phá thành luỹ của người Ca-tô Rô-ma giáo cho đến khi thành luỹ bị phá hũy và tất cả những người Ca-tô Rô-ma giáo trong thành đều chết. Kết quả ngay lập tức là một chỉ dụ cấm đạo năm 1639:

“Trong tương lai, không có một ai, khi ánh sáng mặt trời còn chiếu sáng trên thế giới, có thể lái tàu buồm tới Nhật Bản, ngay cả các sứ thần ưu tú, và tuyên bố này không bao giờ được thu hồi, kẻ vi phạm phải chết!…”

Chỉ dụ bao gồm cho tất cả người Tây Phương ngoại trừ một ngoại lệ là người Hoà Lan được đặt ân tới Nhật vì họ đã giúp loại trừ cuộc nổi dậy của người Ca-tô Rô-ma giáo. Tuy nhiên, vì người Hoà Lan cũng là người đạo Thượng Đế, họ bị theo dõi tối đa. Người Hoà Lan phải di chuyển trụ sở của họ đến đảo Deshima tại vịnh Nagasaki. Họ sống ở đây chật vật như những tù nhân. Họ chỉ được phép đặt chân ra khỏi hòn đảo nhỏ nầy để đi đến những nơi khác trên đất Nhật mỗi năm một lần. Ngoài ra, với những hạn chế bắt buộc liên quan đến các nghi lễ đạo Tin Lành, người Hoà Lan không được để các tín hữu Tin Lành cầu nguyện dưới một chủ đề Nhật Bản duy nhất. Dưới con mắt của người Nhật, đạo Ca-tô Rô-ma không gì khác hơn là một công cụ chính trị và quân sự của người Tây Phương để đánh chiếm thuộc địa. Khi Hoà Lan ký một hiệp ước với Nhật về thương mại gồm có bảy điều khoản, thì có đến bốn điều khoản nói về Ca-tô Rô-ma giáo:

● Thương mại giữa Nhật Bản và Hoà Lan là vĩnh viễn.

● Không có tàu Hoà Lan nào được chở một người đạo Ca-tô Rô-ma giáo của bất cứ quốc gia nào, hoặc chuyển một lá thư do người Ca-tô Rô-ma giáo viết.

● Người Hoà Lan cần thông báo cho thống đốc Nhật Bản bất kỳ thông tin nào về việc truyền bá đạo Ca-tô Rô-ma của các quốc gia ngoại quốc khi thấy cần thiết.

● Nếu người Tây Ban Nha hoặc người Bồ Đào Nha chiếm cứ đất nước của ai vì lý do tôn giáo, Hoà Lan cần thông báo cho thống đốc tại Nagasaki.

Thêm vào đó, tất cả các sách vở của tàu Hoà Lan, đặc biệt là những sách vở có chủ đề tôn giáo, phải được niêm phong trong thùng, phải chuyển giao hết cho Nhật gìn giữ trong khi tàu bỏ neo ở bến. Người Hoà Lan, đầu tiên được cập bến bảy chuyến tàu buồm mỗi năm, sau đó thì bị giới hạn chỉ còn một chuyến mỗi năm.

Nhật Bản, bắt đầu từ đây, bất cứ điều gì liên hệ tới Ca-tô Rô-ma giáo, đều bị nghi ngờ là: “Lừa dối; Không khoan dung; Và chiếm hữu thuộc địa”. Nghi ngờ về sự ngoan cố và xảo quyệt của người đạo Ca-tô Rô-ma đã in sâu vào tâm trí người Nhật, thậm chí họ còn làm tăng cường sắc lệnh đầu tiên bằng những sắc lệnh mới: Người Ca-tô Rô-ma giáo sẽ bị kết án là một tội phạm khi bất kỳ tàu nào của họ đến tìm nơi nương náu ở một hải cảng Nhật, hoặc bất kỳ một thủy thủ Ca-tô Rô-ma giáo nào bị đắm tàu ngoài khơi bờ biển Nhật. Người Nhật rất giận, ngay cả với bất cứ điều gì nhắc nhở họ về đạo Ca-tô Rô-ma. Người Hoà Lan bị cấm sử dụng lịch “Dương Lịch” trong các tài liệu kinh doanh của họ, bởi vì quyển lịch này nói tới ngày “Chúa Nhật” một cách liên tục. Để bảo đảm an toàn, Nhật đã trở thành một vùng đất “hoàn toàn khép kín” cánh cửa đối với thế giới bên ngoài. Cho tới khoảng hơn 200 năm sau, khi Commodore Perry là một người Mỹ, một lần nữa mở được cánh cửa Đất Nước Thần Mặt Trời, để chỉ cho người Nhật thấy nhiều quốc gia trên thế giới đang bị tấn công bằng thần công đại bác bắn từ ngoài biển bắn vào, trong số đó có Việt Nam. Những gì mà Nhật Hoàng đã thấy rất rõ và đã ngăn cấm hơn 200 năm trước, bây giờ là sự thật.

Nhìn người Nhật mà đau xót cho người Việt Nam. Đau xót còn nhiều hơn nữa khi chính những người này là những người đã tạo thành một trang sử ô nhục cho người Việt Nam! Chính họ là những người đã “nô lệ hoá cả một dân tộc của họ gần một thế kỷ” nhưng giờ này, họ lại còn giở trò bẻ cong lịch sử. Liệu họ có thể bẻ cong được lịch sử hay không với câu nói lịch sử của một người, mà người đó không phải là người Việt Nam?

“Giáo Hội Ca-tô Rô-ma giáo phải được xem là nguồn gốc của động lực chính, leo thang, và phát khởi Chiến Tranh Việt Nam. Từ buổi bắt đầu, tôn giáo này đã cổ động dồn dập gây ra thống khổ bất tận trên cả hai lục địa Châu Á và Châu Mỹ.”

Avro Manhattan (Why did we go?, trang 13).

Có phải câu nói trên của Avro Manhattan hàm chỉ: “Chiến tranh Việt Nam là một chiến tranh tôn giáo? (SH- đúng hơn là, chiến tranh của Thiên Chúa Giáo)”

Avro Manhattan, một tác giả và một triết gia người Anh, ngay trong lời đề tựa của một quyển sách, ông đã thẳng thắn viết:
“Hoa Kỳ bị mất hết thể diện trên thế giới. Tại sao vấn đề lại được nêu lên thêm một lần nữa? Bởi vì “Chiến Tranh Việt Nam thật ra là Chiến Tranh Tôn Giáo.” Một cuộc chiến kích động do Vatican, một tên điếm trong Sách Khải Huyền, chương 17 và 18”.

Avro Manhattan (sách Vietnam: Why did we go? Trang 3)

⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎⚍⚎
© DuyênSinh (Sachhiem.net)

THAM KHẢO:
Vietnam – why did we go? Avro Manhattan, Chick Publications (1984)
● Vietnam a History, Stanley Karnow, Penguin Books (1997)
● The American Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellmen, Dell Publising Inc. (1984)

© Đạo Sĩ Chăn Gà

😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍