Người Ca-tô thường không muốn nhân dân Việt Nam biết đến những sự thật lịch sử của Ca-tô giáo La mã ở Việt Nam từ khi Ca-tô giáo xâm nhập Việt Nam cho đến ngày nay, nhất là về những trang sử của giáo hội Ca-tô giáo La mã ở Việt Nam trong giai đoạn thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam. Nếu bất đắc dĩ phải nhắc đến những trang sử này thì mười người như một, họ chỉ kể tội cấm đạo và bạo hành giáo dân Ca-tô giáo của các triều Nguyễn, và không bao giờ nói đến những nguyên nhân đã đưa đến việc cấm đạo và bạo hành giáo dân Ca-tô giáo. Nhưng lịch sử thì có đủ cả hai mặt, nguyên nhân và hậu quả, và tất nhiên không ai có thể thay đổi được những sự kiện lịch sử hay dấu đi một mặt của lịch sử. Ngày nay chúng ta có không thiếu gì tài liệu về giai đoạn lịch sử đau thương này của dân tộc, nhưng lại là một giai đoạn hoàng kim của người Ca-tô Giáo, vì nhờ tiếp tay và lập công lớn với Pháp trong cuộc xâm lăng để đưa đến kết quả là nước Việt Nam phải rơi vào vòng nô lệ của thực dân Pháp, nên người Ca-tô giáo được Pháp thưởng công rất nhiều về tài sản, đất đai, quyền thế v..v… Nhiều đất Chùa đã trở thành đất nhà thờ, hoặc do Pháp cướp và thưởng cho như đất Chùa Báo Thiên ở Hà Nội, hay do Ca-tô giáo tự đi cướp lấy như Chùa Lá Vằng ở Quảng Trị v…v… Đó là những sự thật lịch sử mà ngày nay chúng ta có đầy đủ bằng chứng, những bằng chứng mà người Ca-tô giáo không bao giờ dám công khai chấp nhận. Tôi nghĩ trong giai đoạn đất nước phát triển về mọi mặt này, chúng ta cần phải nhắc đi nhắc lại cái trang sử quan trọng này và những trang sử sau đó của Công Giáo trong đại khối dân tộc, cho đến khi mọi học sinh, sinh viên và cả người dân thường trong nước đều phải biết đến toàn bộ vấn nạn Ca-tô giáo trong lịch sử Việt Nam để rút kinh nghiệm, hay có thể là “ôn cố tri tân” hay là “ôn cố để đề phòng tân”. Không những thế, chúng ta cũng cần phải phổ biến những nghiên cứu của các học giả trên thế giới, ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội, về thực chất của Giáo hội Ca-tô giáo hoàn vũ. Đây là con đường dài hạn, và chúng ta sẽ kiên nhẫn làm việc mở mang dân trí này để giúp cho người dân Việt Nam hiểu rõ về đạo Thiên Chúa nói chung, đạo Ca-tô giáo La Mã nói riêng.

Vậy trước hết, chúng ta hãy nhìn lại những sự kiện lịch sử về việc cấm đạo và vai trò của người Ca-tô giáo trong cuộc xâm lăng của Pháp.

Không ai có thể phủ nhận sự kiện lịch sử là ở Việt Nam có hiện tượng cấm đạo và bách hại những người theo đạo Ca-tô, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh cho tới hết triều Tự Đức, khi mà Pháp đã dùng vũ lực hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam.

Luận cứ của các giáo sĩ thừa sai Ca-tô giáo và những tay sai bản địa là: sở dĩ có những cuộc bách hại giáo dân là vì, từ Vua tới quan cho tới hàng sĩ phu và dân thường ở Việt Nam đều thuộc loại ngu dốt, không chịu chấp nhận “tin mừng Phúc Âm”, nghĩa là chấp nhận làm tôi tớ hèn mọn cho Chúa Giê-su, một người Do Thái đã khẳng định rằng: “Ta được sai đến đây để cứu giúp đàn chiên đi lạc của nhà Israel (nghĩa là dân Do Thái) mà thôi – chứ không phải để lo cho người nước ngoài” (Mã-Thi-Ơ 15: 24, Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, Nguồn Sống, 1994). Vì Chúa không có ý định cứu những người phi-Do Thái, cho nên trong thực tế, các tín đồ Công giáo Việt Nam chỉ là tôi tớ hèn mọn cho Giáo hoàng và các bề trên như Giám mục, Linh mục, những kẻ tiếm vị Chúa trên trần, tự cho mình những thần quyền hoang đường phi lý như đại diện của Chúa trên trần, thay Chúa để tha tội cho con chiên v…v… trong khi lịch sử đã chứng minh trong số những Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục này không thiếu gì những kẻ sát nhân, vô luân, vô đạo đức, trí tuệ đần độn, tư cách hèn hạ v…v… Luận cứ này phản ánh những tâm cảnh cuồng tín trịch thượng, trong khi thực chất chỉ là những luận điệu kém cỏi, bắt nguồn từ niềm tin mù quáng, kiến thức hẹp hòi, không có gì xa sự thật hơn, bởi vì “tin mừng Phúc Âm” chẳng qua chỉ là những luận điệu thần học để huyễn hoặc những con chiên đầu óc kém cỏi vào một niềm tin vô căn cứ, nấp sau mánh mưu thực sự là tạo quyền lực cho giới chăn chiên. Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại ngày nay, qua những công cuộc nghiên cứu sâu rộng về Thánh Kinh, về lịch sử giáo hội Ca-tô giáo hoàn vũ, mánh mưu trên đã bị các học giả phanh phui ra từ lâu rồi. Cho nên, đối với giới hiểu biết, “tin mừng Phúc Âm” đã trở thành “tin xấu Phúc Âm” như giáo sư David Voas đã viết trong cuốn “Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Xấu: Cuốn Tân Ước” (The Bad News Bible: The New Testament, Prometheus Books, New York, 1995.) Và đây cũng là lý do mà Âu Châu ngày nay đang dần dần từ bỏ những “tin mừng” này.

Nhưng sự thật về việc cấm đạo trong các triều Nguyễn là như thế nào? Ông Lý Chánh Trung, một nhà trí thức Công giáo, trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc nhận định rằng:

“Tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo hội (La Mã) đã trở thành quốc giáo thì cây gươm tinh thần của Thánh Phao-Lồ đã luôn luôn bị cám dỗ để biến thành cây gươm thép thực sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, giáo hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “Tà Thần”, đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo” nếu không chịu sửa sai.

…Ngày nay mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo dưới các Vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các vị Vua ấy, và cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn”

Ông Lý Chánh Trung đã không xét đến những khung cảnh xã hội, chính trị đã tạo ra cái khung cảnh tâm lý đó. So với những hành động cấm đạo, diệt đạo rất quyết liệt và tàn nhẫn của Nhật Bản, và so với chính những biện pháp giáo hội Ca-tô dùng để đối xử với những người lạc đạo, những người bị vu là phù thủy v..v.. thì sự cấm đạo ở Việt Nam không thể gọi là bất nhân hay sai lầm. Đó là biện pháp cực chẳng đã để đối phó với những kẻ phản bội quốc gia và rất là nhân nhượng vì các triều Nguyễn luôn luôn chủ trương giáo dục trước khi dùng đến bạo hành như những tài liệu trong một phần sau chứng tỏ. Nhưng ít ra ông Lý Chánh Trung cũng đã cho chúng ta một lời cảnh báo, đó là: mỗi khi hoàn cảnh cho phép, giáo hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “Tà Thần”, đốt sách vở ngoại đạo. Kinh nghiệm của người dân miền Nam dưới chế độ Ngô Đình Diệm, và gần đây nhất, cảnh các giáo dân nghe lời xách động của Tòa Tổng Giám Mục đi phá phách cơ sở của Nhà Nước, tự tiện mang tượng bà Maria và cây thập ác cắm trên đất công, đã chứng minh rõ ràng hơn gì hết lời cảnh báo trên.

Về cái gọi là cấm đạo, Tiến sĩ Cao Huy Thuần cũng viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam, trg. 502, như sau:

“… cái gọi là “đàn áp tôn giáo” đó sự thực chỉ là những biện pháp tự vệ mà mọi nước bị ngọai xâm và nội loạn đe dọa đều bị buộc phải dùng đến nếu không muốn nhận chịu nguy cơ sụp đổ. Nếu đạo Thiên Chúa Việt Nam bị bài xích, thì việc đó, chính yếu là do các người đại diện cho đạo. Những người này, bằng những hoạt động tai hại và ý muốn thống trị của họ, rút cục đã làm cho người Việt Nam thấy Chúa Christ là tay sai của xâm lăng thuộc địa và văn hóa.

Nhận định của ông Lý Chánh Trung cho chúng ta biết sách lược truyền đạo man rợ của Giáo hội Ca-tô La Mã và những tay sai bản địa, và nhận định của Tiến sĩ Cao Huy Thuần cho chúng ta thấy những biện pháp tự vệ của Việt Nam trước sách lược truyền đạo trên. Xét theo bối cảnh lịch sử thế giới trong những thế kỷ 16-19 thì chúng ta phải nói rằng, căn bản căm phẫn của các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và tay sai bản địa về việc cấm đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam thật là yếu ớt một cách lố bịch: “Vì chính trong những khoảng thời gian này, Ca-tô La Mã giáo đang tàn sát những tín đồ Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng Thánh Xử Dị Giáo (Holy Office of the Inquisition = Cơ Quan Chỉ Đạo các Tòa Hình Án xử dị giáo) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị giáo từ Granada tới Goa.” (Dennis Bloodworth)

Như vậy, căn bản căm phẫn của họ thực ra là đặt trên cái lý lẽ đầy bất công và man rợ của kẻ mạnh, mạnh vì gươm giáo, súng ống, chứ không phải mạnh về tinh thần hay đạo đức: là con Chúa thì có quyền đi tra tấn, tàn sát, thiêu sống người ngoại đạo vì họ không có cùng một niềm tin như các con Chúa, còn người ngoại đạo thì không có quyền đụng tới con Chúa ngay cả khi những con Chúa này có những hành động phản quốc.

Nha Nguyen xu nha truyen dao

Sau đây chúng ta hãy thử phân tích vấn đề đâu là những nguyên nhân của việc cấm đạo và bách hại giáo dân Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam qua một số tài liệu. Những nguyên nhân này nằm trong chính sách truyền đạo của Ca-tô La Mã Giáo từ ngày đầu, và trong vai trò phản quốc, làm tay sai cho giặc, của Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam trong cuộc xâm lăng Việt Nam của thực dân Pháp.

Một trong những tài liệu có tính cách tổng hợp về sự du nhập của Ca-tô La Mã giáo vào Việt Nam là của Helen B. Lamb, trong cuốn “Ý Chí Sống Còn Của Việt Nam” (Vietnam’s Will to Live). Sau đây là vài đoạn trong đó, xin độc giả để ý đến những lời văn châm biếm rất ý nhị của tác giả..

“Những sự giao tiếp giữa Pháp và Việt Nam từ thế kỷ 17 trở đi đều theo một mô thức cổ điển xâm nhập Á Châu của Tây phương. Mới đầu là các thừa sai và con buôn. Rồi các nhà ngoại giao đến can thiệp, nhân danh cả hai, và cuối cùng, quân lính tiến vào, áp đặt sự thống trị của ngoại quốc – lẽ dĩ nhiên là để làm tốt cho dân bản xứ.

Động cơ chính để một nước đi chiếm thuộc địa và những vùng ảnh hưởng là sự chiếm hữu một cái gì đó, quyền lực, uy tín, của cải, hay những thứ cưỡng đoạt được…Trong trường hợp nước Pháp, họ đặt nặng vấn đề tôn giáo. Là những người cầm đuốc soi sáng cho những người khác về chủ thuyết Ca-tô, người Pháp đã lao mình vào một cuộc Thánh chiến để mang tới cho dân Việt Nam món quà vô giá, cơ hội để sống đời đời, bất tử. [Trong khi thực ra thì đó chỉ là một cái bánh vẽ trên trời (a pie in the sky) như Mục sư Ernie Bringas và nhiều người trong giáo hội Ki-Tô đã nhận định. TCN]

Chỉ khi nước Pháp trở thành thế tục hơn trong thế kỷ 19, họ mới đặt nặng chiêu bài “nhiệm vụ văn minh hóa” – trong những quốc gia mà niềm tự hào về nền văn minh cổ của họ rất là chính đáng.

…Dù các con buôn bị đối đãi lạnh nhạt đến đâu thì các thừa sai Tây phương còn bị nghi ngờ hơn nữa. Sau năm 1645, khi Alexandre de Rhodes bị bắt cầm tù và rồi bị trục xuất, thì theo những con buôn người Anh tới giao thương ở Việt Nam, các thừa sai phải ngụy trang dưới dạng con buôn.

…Một triết gia Đông phương hiện đại, khi giải thích về sự đối kháng của Á Châu đối với những nhà rao bán Phúc Âm Ki Tô Giáo (truyền giáo), đã nhấn mạnh đến thái độ kiêu căng điển hình của thừa sai Ki Tô như sau:

“Cái óc Tây phương của các ông thường quá bị ám ảnh bởi ý tưởng chinh phục và chiếm hữu, cái thói quen dụ người khác vào đạo đã ăn sâu trong đầu óc các ông cũng là một hình thức chinh phục và chiếm hữu… Rao giảng về giáo thuyết của các ông chẳng phải là một sự hi sinh, mà là đắm mình trong một sự xa xỉ nguy hiểm hơn mọi xa xỉ vật chất rất nhiều. Nó nuôi dưỡng trong tâm các ông một ảo tưởng là các ông đang làm bổn phận – rằng các ông khôn ngoan hơn và giỏi hơn đồng loại của các ông..”

…Ngay cả khi chính quyền Việt Nam cho ra những đạo dụ chống sự truyền đạo của Công Giáo, họ vẫn cho phép những Thánh nhân Phật giáo từ Trung Hoa vào truyền đạo ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ giới quan lại không chống đối tự thân sự truyền đạo.

Sự phỉ báng tất cả những gì của Á Châu được thấy rõ, ngay từ lúc đầu, trong thái độ của những thừa sai Pháp đối với những tôn giáo ở Việt Nam, như chúng ta đã thấy trong những thư từ liên lạc và tác phẩm của họ.

…Trước khi những người Ki Tô Giáo tới, Việt Nam có ba tôn giáo lớn: Phật Giáo, Lão Giáo, và Khổng Giáo. Ba tôn giáo của Việt Nam này sống chung hòa bình với nhau hầu như trong suốt dòng lịch sử. Theo một mức độ nào đó, các tôn giáo này hòa hợp làm một, một nơi thờ tự tôn giáo có thể được dựng lên để thờ cả ba vị giáo chủ của ba đạo sống khác nhau. Về vấn đề tôn giáo, Việt Nam là một xã hội đa tôn giáo, điều này có thể giải thích sự kiện các thừa sai Tây phương thành công ở Việt Nam hơn là ở những nơi khác tại Đông Nam Á.

…Bất kể là những sự khác biệt giữa các tôn giáo ở Việt Nam như thế nào, chúng thật không đáng kể so với cái vực thẳm ngăn cách những tôn giáo này với giáo hội hiếu chiến Ca-tô giáo.. Các Vua Việt Nam coi chủ thuyết Công giáo như là một sự đe dọa đến quyền hành của họ, và coi những người Việt Nam theo đạo như thuộc hạng chót trong một hệ thống quyền lực tôn giáo chặt chẽ dưới quyền những giám mục ngoại quốc. [Bị ngoại nhân hoàn toàn thống trị đến độ giáo hội Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam không có một giám mục Việt Nam nào được bổ nhiệm cho tới thập niên 1930, 400 năm sau khi những giáo sĩ thừa sai Ca-tô La Mã giáo đầu tiên tới Việt Nam.TCN] Ở trên những giám mục ngoại quốc là một giáo hoàng ngoại quốc ở tận La Mã xa xôi, và những tín đồ Việt Nam này trung thành và tuân lệnh giáo hoàng thay vì hoàng đế Việt Nam.

Những thừa sai thì hoàn toàn xa lạ với Việt Nam và với ý tưởng hòa hợp giữa các lý tưởng tôn giáo khác nhau. Đối với dân ngoan đạo Ca-tô thời đó thì chỉ có hai quan điểm đối ngược, hoặc đúng hoặc sai, không thể có một sự thỏa hiệp hay đối thoại nào giữa hai quan điểm trên. Các thừa sai coi thường tín ngưỡng và cách hành đạo địa phương, cho chúng là sai lầm…

Nhiều bản báo cáo thời đó mô tả sự việc các thừa sai đã mang vào Việt Nam một số lượng lớn Âu dược chữa bệnh cho dân chúng để “chiếm lòng họ.” (Linh mục de Courtaulin, trích trong tác phẩm của Taboulet, trg. 42). Nhưng trong những hoạt động dụ người vào đạo, các thừa sai Ca-tô đã khai thác sự sợ hãi và hi vọng của đám dân ngu dốt và nhẹ dạ cả tin. Những kẻ tân tòng coi Ca-tô Giáo như là một hệ thống ma thuật mới. Nước thánh của Ca-tô giáo được dùng với hi vọng có thể đuổi được quỷ ám, cứu người chết sống lại, làm cho người mù sáng mắt trở lại v…v.. [Đây chỉ là những lời truyền đạo mê hoặc đám dân ngu dốt của những thừa sai ngu đạo, dựa trên những điều hoang đường trong Tân ước. TCN]

Tin vào sự không thể sai lầm của Ca-tô giáo, những hội viên trong Hội Truyền Giáo Hải Ngoại đã tấn công Phật Giáo, coi Phật Giáo như là vô thần và thờ hình tượng, và chỉ trích nặng nề Khổng giáo về tục lệ thờ cúng tổ tiên.

…Đối với những nhà lãnh đạo Việt Nam, toàn thể giáo thuyết Ca-tô giáo bị coi là không thực. Theo quan điểm của Nho gia thì bản chất con người là tốt; chỉ cần được huấn luyện cho tốt để có thể sử dụng lý trí của mình mà phân biệt giữa tốt và xấu. Con người không cần phải được “cứu rỗi” bởi sự can thiệp của Chúa Ki Tô với Thượng-đế, và nếu cho rằng Chúa Ki Tô có khả năng như vậy thì đối với giới Nho sĩ, đó cũng không khác gì một sự mê tín.

Giáo điều Ki Tô, ngoài tính chất thô thiển và không hợp lý, còn bị coi như là thật sự nguy hiểm, vì nó làm cho con người xa cách với gia đình để tìm sự giải thoát cho riêng mình.

… Bằng sự đe dọa hỏa ngục và sự đày đọa đời đời, các giáo sĩ thừa sai bắt buộc những đàn chiên Việt Nam của họ phải theo đuổi ly rượu Thánh cho sự sống đời đời của mình trong một thế giới sau thay vì làm những bổn phận hiếu thảo trong đời này. Những nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt lo ngại về giáo điều xưng tội của Ca-tô giáo, coi đó như là một cách áp đặt quyền lực trên giáo dân. (Không những thế, đây cũng là một cách lấy tin tức tình báo quân sự rất hữu hiệu. TCN).

…Như là một sự thách đố đối với thiên tài của Khổng giáo trong việc hòa hợp các tín ngưỡng khác nhau, Ca-tô giáo đã chứng tỏ là một tôn giáo hoàn toàn không thể tiêu hóa nổi. Trong bốn thế kỷ, Ca-tô giáo vẫn còn như là một lực lượng chia rẽ trong xã hội Việt Nam. Để tăng cường cái vực thẳm ý thức hệ giữa những tín đồ Ca-tô giáo và đại khối dân tộc, những tín đồ Ca-tô giáo thường sống trong những làng mạc riêng biệt, dưới quyền thống trị của các linh mục, y như những làng mạc trong thời Trung Cổ ở Âu Châu cách đây 500 năm. [Linh Mục Trần Tam Tĩnh đã gọi những làng mạc riêng biệt này là những “ốc đảo ngu dốt”]

Về mặt văn hóa cũng vậy, những người Việt Nam tân tòng Ca-tô giáo trở thành cô lập với nền văn hóa chủ đạo. Để phổ biến giáo lý Ca-tô giáo, các thừa sai đã nghĩ ra một dạng chữ mới theo mẫu tự La Mã gọi là Quốc Ngữ, một cách phiên âm tiếng Việt họ dùng để dạy những đàn chiên của họ. Họ dịch những sách cầu nguyện hay kinh sách Ca-tô giáo khác ra loại chữ mới này, nhưng không dịch văn chương Việt Nam. Điều này có nghĩa là những tín đồ Ca-tô giáo ở Việt Nam, vì không còn học ở các trường làng do các thầy Nho dạy, không thể đọc được tiếng Việt, gọi là chữ Nôm, hay chữ Hán được dùng trong mọi văn kiện công cộng. Chữ Quốc Ngữ là một trong vài đóng góp có ảnh hưởng lâu dài vào nền văn minh Việt Nam của Tây phương, nhưng ảnh hưởng tức thời của nó là chia rẽ quốc gia và đánh thẳng vào gốc rễ văn hóa của Việt Nam.

Đối với một quốc gia mà lý tưởng là sự hòa đồng trong cộng đồng và lối sống theo những qui định giao thiệp giữa con người với nhau, sự xâm nhập của Ca-tô giáo biểu thị cho sự xáo trộn và bất hòa trong xã hội.

Ngay từ ngày đầu, những người xây dựng Ca-tô giáo ở Việt Nam đã cố ý coi thường chính quyền Việt Nam và đã dùng đến phương cách hối lộ và gian lận để đạt được những mục đích của họ.”

Nguyên văn:

(Franco-Vietnamese relations from the 17th century on followed the classic pattern of Western penetration of Asia. First came the missionaries and traders. In time, diplomats arrived to intercede on behalf of both and, in the end, soldiers marched in to impose foreign rule – for the subject people’s own good, of course.

A country’s chief motive in acquiring colonies and spheres of influence would seem to be acquisition – to get something, be it power, prestige, wealth, or plunder…In the French case the chief emphasis was on religion. As the torchbearers of Catholicism, the French were engaged in a religious crusade to give the people of Vietnam that most priceless of gifts, the opportunity to achieve immortality. Only when France became more secular in the 19th century did it place emphasis on its “civilizing mission” – in countries justly proud of their ancient civilization.

…However unwelcome the traders were, Western missionaries were even more suspect. After 1645, when Alexandre de Rhodes was first imprisoned and then expelled, missionaries had to disguise themselves as traders, according to English merchants who came to Vietnam to open up trade channels.

…A modern Eastern philosopher, in attempting to explain Asia’s antagonism toward Christian evangelists, stressed the arrogance of the typical Christian missionary:

“You Western mind is too much obsessed with the idea of conquest and possession, you inveterate habit of proselytism is another form of it.. Preaching your doctrine is no sacrifice at all – it is indulging in a luxury far more dangerous than all luxuries of material living. It breeds an illusion in your mind that you are doing your duty – that you are wiser and better than your fellow-beings…”

…Yet even while these Vietnamese authorities were passing edicts against Catholic proselytizing, they allowed Buddhist holy men to enter Vietnam from China and seek converts among the Vietnamese. This would suggest that the mandarins did not oppose evangelism per se.

A denigration of everything Asian is implicit in the attitudes of early French missionaries toward the religions they found in Vietnam, as can be seen in their correspondence and writings.

…There were three world-famous religions in Vietnam prior to the arrival of the Christians: Buddhism, Taism, and Confucianism…Vietnam’s three religions coexisted, leaving peacefully side by side most of the time. The a certain extent they were even fused into one, with the same religious temple built to honor collectively the founders of all three ways of life under one roof…

Vietnam was, in religious terms, a pluralistic society, which may help account for the greater success of Christian missionaries in Vietnam than in other parts of Southeast Asia.

…Whatever the difference between Vietnam’s various religions, they were minor compared with the gulf separating them from the militant Catholic Church.. Vietnamese emperors regarded Catholicism as a threat to their authority and the local Vietnamese converts as the bottom rung of a tight religious hierarchy under foreign bishops. (So completely dominated by foreigners was the Vietnamese Catholic Church that there were no Vietnamese bishops appointed until the 1930s, almost 400 years after the first Catholic missionaries arrived in Vietnam.) Above the foreign bishops was the foreign pope in far-off Rome, and they owned their loyalty and obedience to him rather than to the Vietnamese emperor.

The missionaries were totally alien to Vietnam and to the very idea of mutual accomodation between different religious viewpoints. To the Catholic faithful of this period there was truth and error, with no possibility of compromise or “dialogue” between the two. Missionaries looked down on local beliefs and practices, calling them false.

…Early reports describe how a large quantity of Western medicines was brought to Vietnam so that the missionaries could administer them “in order to win the hearts of these peoples” (Father de Courtaulin, quoted in Taboulet, p.42). But in their proselytizing activities many Catholic missionaries exploited the fears and hopes of the ignorant and the credulous. Christianity was regarded by those who adopted it as a new system of magic. Catholic holy water was used, hopefully, to exorcise devils, raise the dead, and restore sight to the blind…

True to their belief in Catholic infallibility, members of the Society of Foreign Mission attacked Buddhism as both atheistic and idolatrous and excoriated Confucianism because of its rites of ancestor worship.

…To Vietnam’s rulers, the entire Christian doctrine was suspect. In the Confucian view, man is essentially good; all he needs is good training and the use of his reasoning powers to ascertain the difference between good and evil. He does not have to be “saved” by Christ’s intercession with God, and the supposition that he did, struck the educated Confucian as just so much superstitious.

Besides being considered crude and implausible, Christian dogma was viewed as positively dangerous, since it alineated a person from his family by emphasizing individual salvation.

The missionaries enjoined their Vietnamese flocks, under the threat of hell fire and damnation, to pursue the Holy Grail of personal immortality in the next world instead of fulfilling the duties of filial piety in this one. The Vietnamese authorities were particularly alarmed over the Catholic confessional as a means of exercising power over people.

…As if challenging the Confucian genius for merging and tempering alien creeds, Catholic proved to be completely indigestible. For four centuries the Catholic faith has remained a divisive force in the society. Reinforcing the ideological gulf between Vietnamese Catholics and the rest of the population, Christian converts have tended to live apart in separate villages dominated by their priests, much as the villages of medieval Europe were dominated five hundred years ago.

In a cultural sense, too, Vietnamese converts to Catholicism became isolated from the mainstream. In order to dissiminate Christian teachings in Vietnam, the missionaries worked out a new form of Romanized script called Quoc Ngu, a phonetic rendering of Vietnamese which they taught their flocks. They translated prayer books and religious tracts into this new script, but no Vietnamese literature. This meant that Vietnamese Catholics, who no longer attended village schools run by Confucian scholars, could read neither the Vietnamese script, called “Nom”, nor the Chinese characters used for all public documents. The Romanized script was one of the few lasting Western contributions to Vietnamese civilization, but its immediate effect was to divide the nation and strike at the roots of Vietnamese culture.

For a nation whose ideal was a harmonious community living according to well – defined human relationships, this Catholic intrusion represented disorder and dissension..

From the start the Church fathers in Vietnam had been willing to defy Vietnamese authority and resorted to bribery and fraud to gain their ends.)

Trên đây chỉ là một cái nhìn đại cương về một vài khía cạnh của vấn đề Ca-tô La Mã giáo xâm nhập vào Việt Nam. Muốn biết rõ thực chất của sự xâm nhập này, chúng ta cần đi thêm vào một số chi tiết để tìm ra nguyên nhân của việc cấm đạo ở Việt Nam.

Các nhà khảo sử không ai phủ nhận việc cấm đạo và chính sách khắc nghiệt của các triều Nguyễn đối với các tín đồ Ca-tô La Mã Giáo, nhưng tất cả đều đồng ý ở một điểm: Việt Nam là một dân tộc hiền hòa, hiếu khách, dễ dãi, và có tinh thần khoan dung tôn giáo rất cao, do đó không có truyền thống cấm đạo hay bách hại giáo dân vì lý do tôn giáo. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong tài liệu của Helen Lamb vừa trích dẫn ỏ trên, và trong vài tài liệu sau đây.

Trong cuốn “L’Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine”, bản dịch ra tiếng Việt của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu Tsuboi viết như sau:

“…lập luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam, nơi mà tinh thần hòa đồng tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, nhất là khi vẫn có trật tự xã hội, không có lý do gì lại đi bách hại đạo Ca-tô với tính cách là một đạo giáo.”

Trong cuốn French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914. A Documentary Survey, Patrick J. N. Tuck nhận xét như sau, trg. 28:

“Động cơ của sự bách hại đạo Ki Tô ở Việt Nam chưa bao giờ vì những vấn đề siêu hình (tôn giáo). Truyền thống tôn giáo Việt Nam thường mang đặc tính chiết trung (không bị thu hẹp vào một nguồn tư tưởng nào; TCN) và chấp nhận rộng rãi các tín ngưỡng khác.

Xét về toàn bộ, truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha trộn, để cho con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý.”
Nguyên văn:

(…The persecution of Christianity in Vietnam was never motivated by purely metaphysical issues. Vietnamese religious tradition was usually eclectic and broadly tolerant of other beliefs.

Overall, Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the pursuit of many paths to the Truth.)

Vậy tại sao lại xẩy ra chuyện cấm đạo và bách hại giáo dân? Tất nhiên những biện pháp khắc nghiệt, trái với truyền thống khoan nhượng tôn giáo của Việt Nam, phải có nguyên nhân. Những nguyên nhân này không bao giờ được các nhà viết sử thực dân hay tay sai Ca-tô bản địa nhắc tới. Những nguyên nhân này là gì, hiện nay tài liệu có khá đầy đủ, tôi có thể tóm tắt những nguyên nhân đó trong ba điều sau đây:

i). Các giáo sĩ thừa sai Ca-tô La Mã Giáo khi tới Việt Nam truyền đạo đã không giữ đúng vai trò truyền giáo thuần túy của mình. Họ có những thái độ ngạo mạn, khinh rẻ chính quyền địa phương vì tự cho là văn minh tiến bộ trong khi bản chất của họ, ít ra là về phương diện tâm linh, luân lý, và đạo đức, thật là hẹp hòi và chậm tiến. Với tâm cảnh cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt và huênh hoang, cộng với sự kiêu căng lố bịch, cho rằng đạo của mình là đạo “thiên khải” chân thật duy nhất, họ đã dùng những phương pháp truyền đạo gian xảo, xuyên tạc sự thật để mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức, và cấu trúc văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam. Họ đã trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa, xáo trộn trong xã hội Việt Nam.

ii). Các giáo sĩ thừa sai Ca-tô giáo đã giữ những vai trò then chốt trong việc thực hiện âm mưu phá hủy nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, vận động chính quyền Pháp xâm lược Việt Nam, tích cực đóng góp cho việc xâm lược Việt Nam, và đào tạo một đạo quân thứ 5 bản địa, biến những kẻ tân tòng đần độn trong tầng lớp cặn bã của xã hội Việt Nam thành một đám nô lệ cho Vatican, coi thường luật lệ quốc gia và không ngần ngại phản bội quê hương.

iii). Một số không nhỏ giáo dân Ca-tô Việt Nam đã hợp tác, tiếp tay với thực dân Pháp, đem nước ta vào vòng nô lệ Pháp để được hưởng những quyền lợi đặc biệt tôn giáo của một thiểu số cam phận làm thân trâu ngựa, phục tùng tuyệt đối các giáo sĩ ngoại quốc, bất kể đến sự đau thương của cả một dân tộc bị nô lệ ngoại bang.

Đó là những gì mà các thừa sai Ca-tô La Mã giáo đã mang đến cho dân tộc Việt Nam với kết quả là, sau khi chế độ thực dân cáo chung, là để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản nghi kỵ nhức nhối giữa đại khối dân tộc và khoảng 7% dân số theo Ca-tô Giáo, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, từ Công trường Phê-rô đến Bolsa ở Little Saigon, một di sản không biết tới bao giờ mới xóa sạch được, như linh mục Kim Dịnh đã nhận định. Và cái di sản đó đang có cơ sống lại ở Việt Nam ngày nay qua những hành động vô trí, vô pháp luật, phi dân tộc của Tòa Tổng Giám Mục gần đây về vụ đòi đất tòa Khâm sứ.

Sau đây là phần chứng minh 3 nhận định nêu trên qua các tài liệu.

Chúng ta đã biết sách lược truyền đạo thiếu văn hóa của giáo sĩ Alexandre de Rhodes, chúng ta đã biết việc dính vào chính trị nội bộ của Việt Nam cùng việc tuyển mộ, chỉ huy một đoàn quân lính đánh thuê để giúp Nguyễn Ánh của Giám mục Bá Đa Lộc, và chúng ta cũng đã biết những hoạt động gián điệp của các Giám mục Gauthier, Retord, Huc, Pellerin, Puginier v..v.. Những tài liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ thực chất những hoạt động “truyền giáo” của các thừa sai Ca-tô La Mã giáo ngoại quốc, tâm cảnh và hoạt động tiếp tay cho giặc của những giáo dân Việt Nam, và từ đó chúng ta có thể suy ra những nguyên nhân cấm đạo hay bách hại giáo dân.

1. Trong cuốn “L’Empire Vietnamien Face à la France et à la Chine”, bản dịch ra tiếng Việt, Nước Đại Nam Đối Diện Với Pháp và Trung Hoa, của Nguyễn Đình Đầu, Yoshiharu Tsuboi viết như sau:

“Linh mục Louvet gợi lại việc phái bộ Montigny đã tới Đà Nẵng năm 1847 để diễu võ dương oai rồi thảm bại rút lui để lại bao khó khăn cho thừa sai và tín hữu. Theo Louvet, phái bộ Montigny đã gây chuyển hướng trong tính cách của sự bách hại như sau: “…từ phạm vi tôn giáo chuyển sang phạm vi chính trị, người Ca-tô giáo không chỉ nguyên thuần là một kẻ theo tà đạo, tự mình tách rời ra khỏi đời sống công dân và gia đình do chối từ việc thờ cúng tổ tiên, mà còn là bạn bè của người ngoại quốc, là kẻ phản bội và phản nghịch từng kêu gọi quân xâm lăng đến chiếm lĩnh nước mình.” Sự thật Louvet chỉ nhắc lại một lập luận mà giám mục Pellerin đã quảng diễn từ trước…

Một lập luận như vậy đánh dấu thật rõ ràng sự thay đổi trong não trạng các thành viên hội Thừa Sai của Paris, vì lập luận ấy đã cho biết sự thật lịch sử: tại Việt Nam, nơi mà tinh thần hòa đồng tôn giáo đã thấm sâu vào xã hội, không có lý do gì, nhất là khi vẫn có trật tự xã hội, lại đi bách hại đạo Ca-tô với tính cách là một đạo giáo. Đã từ lâu, điều làm cho người ta e ngại là sự hiện diện và hoạt động của các thừa sai bị coi như là những điệp viên của Tây phương có nhiệm vụ phá hại nền đạo đức và chính trị của nước Việt Nam. Chúng tôi đã xem xét kỹ hoạt động của các thừa sai, bởi vì chúng tôi tin là hội thừa sai Paris và các giáo sĩ của hội này đã là những kẻ “dẫn đường” chính cho chính quyền Pháp tại Việt Nam”

2. Trong cuốn Những Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Sự Xâm Nhập của Pháp Vào Việt Nam (Les Missions Étrangères et la Pénétration Francaise au Viet-Nam), Nicole-Dominique Lê viết:

“Theo quan điểm của những nhà lãnh đạo Việt Nam thì các thừa sai đã phạm tội thúc đẩy giáo dân bất tuân luật lệ quốc gia. Từ bỏ những thờ phượng tôn giáo, những giá trị xã hội đã khiến cho họ sống ở ngoài lề của xã hội truyền thống. Nhưng nghiêm trọng hơn là, người ta trách cứ các giáo sĩ và giáo dân đã tạo nên sự phân chia quốc gia thành 2 khối tôn giáo đối nghịch nhau.

Nguyên văn:

(Les missionaires, selon l’optique des dirrigeants Vietnamiens, étaient coupables de pousser les Chrétiens à rejeter les lois de leur pays. Rejet des cultes religieux, des valeurs sociales qui les faisaient vivre en marge de la société traditionnelle. Mais chose plus grave, on reprochait aux prêtres et aux chrétiens la scission du pays en deux clans religieux opposés.)

“Được thành lập một cách cuồng tín, những người Ca-tô Giáo La Mã ở Việt Nam đã có một ý thức giai cấp; họ tự cảm thấy tách biệt khỏi đại khối dân tộc, khác biệt và cao quý hơn, vì họ đã nhận được “ánh sáng của Thượng Đế.” Họ khinh miệt những người phi-Ki Tô, những người đã theo những nghi lễ “mọi rợ và mê tín”. Nhưng những người phi-Ki Tô cũng khinh miệt không kém những kẻ theo đạo, thường là xuất thân từ giai cấp hạ tiện, những người chẳng mất mát gì khi theo một tôn giáo khác, một tôn giáo từ chối gia tài của xứ sở. Nhất là giai cấp văn thân càng ghét họ hơn, vì, không những họ từ bỏ những truyền thống tổ tiên, mà tệ hơn nữa, kêu gọi ngoại nhân đến với họ, xin ngoại nhân che trở và cho họ việc làm, hầu hạ và phục tùng ngoại nhân như là các ông chủ duy nhất. Về phía Ca-tô giáo, họ không làm gì để xóa bỏ hay ít ra là làm giảm bớt cái tiếng xấu của họ, trái lại, khi chắc rằng người Pháp sẽ ngự trị ở ngoài Bắc, và tin rằng thời cơ của họ đã tới, họ đã phạm nhiều sự lạm dụng không thể tha thứ được.

Nguyên văn:

(Formés fanatiquement, les chrétiens Vietnamiens ont acquis une conscience de classes; ils se sentaient à part du reste de la nation, différents et supérieurs, car ils avaient recu la lumière du Dieu. Ils méprisaient les non-chrétiens, qui pratiquaient des rites barbares et superstitieux. Mais les non-catholiques ne méprisaient pas moins les convertis qui, le plus souvent de basse extraction, n’avaient rien à perdre en suivant une autre religion qui niait à elle seule l’héritage du pays. La classe lettrée surtout les détestait car, non seulement ils reniaient leurs traditions ancestrales, mais pire encore, ils appelaient à eux les étrangers, leur demandant protection et emploi, les servant et leur obéissant comme à des maitres incontestés. Du côté catholique, rien ne fut entrepris pour effacer ou tout au moins atténuer la mauvaise réputation qui leur était faite. Bien au contraire, lorsqu’ils furent certains que la France allait désormais s’installer au Nord, ils commirent d’impardonable abus, croyant leur heure est arrivée.)

3. Trong cuốn Trung Kỳ – Bắc Kỳ 1885-1896 (Annam-Tonkin 1885-1896), Charles Fourniaux viết:

“Căn bản của lực lượng này (với mục đích đồng hóa toàn phần dân chúng để tạo một “Đông Dương của Pháp”, bằng cách phá hoại văn minh cổ truyền và những văn thân gìn giữ nền văn minh này) nằm trong 600,000 giáo dân Ca-tô Giáo mà các thừa sai là những ông chủ tuyệt đối. Họ sống trong các làng mạc hoặc phần làng mạc riêng biệt, vì các thừa sai nhất định bảo vệ họ để khỏi bị ảnh hưởng xấu của người “Lương” và người Âu châu. Nhưng nhất là vì niềm tin và tác phong của họ đã làm cho đồng bào của họ coi họ như là những kẻ bội giáo và phản bội quốc gia. Họ không còn trung thành với sự thờ cúng tổ tiên, không tôn trọng những lễ lạc cổ truyền và phong tục tập quán. Thật vậy, có phải là từ những năm 70 họ đã chẳng là những “nội ứng của Pháp”, làm tình báo cho kẻ thù và giúp đỡ kẻ thù, và cung cấp đa số trợ quân cùng những kẻ phản bội quốc gia khát máu như tên Trần Bá Lộc?

Nguyên văn:

(La base de cette force (visant à l’assimilation complète de la population pour construire une “France Indochinoise”, en détruisant la civilisation traditionnelle et ses gardiens que sont les Lettrés) réside dans les 600,000 chrétiens sur lesquels règnent en maitres absolus les missionnaires. Ils vivent en villages ou quartiers de villages séparées, car les missionnaires tiennent à les protéger des influences néfastes des “paiens” et des européens. Mais surtout leur foi et leur comportement les fait apparaitre à leurs compatriotes comme des rénégats et des traitres. Ils sont infidèles aux pratiques du culte des ancêtres, ne respectent ni les fêtes traditionnelles ni les coutumes. Enfin n’ont-ils pas été depuis le début des années 70 les “Francais de l’intérieur”, renseignent et aident l’ennemi, fournissant le gros des recrues de forces supplétives et des traitres sanglants comme Trần Bá Lộc?)

(Trần Bá Lộc là tên tay sai Ca-tô La Mã giáo đắc lực nhất của Pháp trong sự đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở miền Nam, nổi tiếng là tàn bạo và tham lam. Leo từ lính cơ của Pháp lên tới tri phủ (1886) hắn đã “chặt nhiều đầu” kháng chiến quân, chính hắn viết như thế, và còn bắt bớ những người có liên hệ với kháng chiến để tống tiền dưới hình thức “bồi thường”, được Pháp khen thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh hạng 3: theo tài liệu A30 (75), hộp 19, Thư Khố Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại.)

4. Trong cuốn Việt Nam Chiến Sử, tác giả Phạm Văn Sơn viết:

“Dưới mắt Vua Minh Mạng các tu sĩ Tây phương ngoài việc truyền giáo còn là những gián điệp lợi hại nhất của đế quốc và các tàu buôn cùng sứ thần của họ cũng có những công tác bí mật, vậy “kính nhi viễn chi” là hơn.”

5. Trong cuốn The Vietnam Response to French Intervention, 1862-1874 của Mark W. McLeod, chúng ta có thể đọc được những đoạn sau đây:

“Nguyên tắc của Vua Minh Mạng để đối phó với những người Ca-tô giáo Việt Nam như sau: trước hãy giáo dục sau mới dùng đến hình phạt. Như vậy, các viên chức trước hết phải khuyên hóa những người Ca-tô giáo để cho họ tỉnh ngộ và hối cải những tội ác của họ..
Nguyên văn:

(Minh Menh’s principle for dealing with the Vietnamese Catholics was the following: “first we must educate; only afterward do we punish”. Accordingly, officials were first to “advise and instruct” the Catholics so that they would “awaken” and repent their crimes.)

“Sau đó, những đạo dụ khắc nghiệt hơn được ban hành mỗi khi Vua Tự Đức phải đối diện với bằng chứng là các giáo sĩ Ca-tô giáo và các giáo dân dính líu vào những cuộc nội loạn hay đứng về phía một quyền lực ngoại quốc.”
Nguyên văn:

(Subsequent, more severe edicts were issued whenever Tu Duc was confronted with evidence that the Catholic missionaries or the indigeneous Catholics were involved in internal rebellions or were in league with a foreign power.)

6. Trong cuốn La Place du Catholicisme dans les Relations Entre la France et le Vietnam, de 1851 à 1870, nhà trí thức Gia Tô Étienne Võ Đức Hạnh viết:

“Dưới triều Vua Tự Đức, một số lớn tín đồ Công giáo Việt Nam làm tình báo cho Pháp…Dưới triều Tự Đức, do sự xúi dục của các giáo sĩ, người Ca-tô giáo và phi- Ca-tô, âm thầm hoặc công khai, chống đối lại vị Vua tại vị hơn là nhà Nguyễn vì nhiều lý do…Chỉ có một điều khác biệt: người Ca-tô có cùng chung mục tiêu với nước Pháp, còn người phi- Ca-tô thì không.”
Nguyên văn:

(Sous Tu Duc, un grand nombre de catholiques Vietnamiens sont d’intelligence avec les Francais… Au jours de Tu Duc, Chrétiens et non-chrétiens, à l’instigation des missionnaires, résistent ici sourdement, là ouvertement au roi régnant mieux à la dynastie des Nguyen pour plusieurs motifs.. Une seule différence: les chrétiens font cause commune avec la France, les non-chrétiens les combattent)

7. Trong cuốn French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam, 1857-1914, Patrick J. N. Tuck viết, trg. 28:

“Xét về toàn bộ, truyền thống tôn giáo Việt Nam là một truyền thống dễ hấp thụ, pha trộn, để cho con người có thể theo nhiều con đường khác nhau đi đến chân lý.

Đối ngược với điều trên, những điều tự nhận của Ca-tô Giáo về một tâm linh duy nhất thật là phi lý và kỳ cục đối với người Việt Nam. Ngoài ra, chiến thuật dụ người vào đạo của các thừa sai có tính cách xâm nhập độc chiếm. Ảnh hưởng xã hội và chính trị của sự truyền đạo này có tính cách phá hại cao độ. Chính điều này đã gây nên thái độ thù nghịch trong giới sĩ phu cũng như trong đại chúng
Nguyên văn:

(Overall, Vietnamese religious tradition was absorbant and syncretic, allowing for the pursuit of many paths to the Truth. In contrast with this, the exclusive spiritual claims of Christianity seemed irrational and eccentric to the Vietnamese. However, missionaries strategies of conversion were exceptionally intrusive. The social and political effects of their proselytism could be highly disruptive. It was this which aroused popular as well as elite hostility)

“Theo quan điểm của người Việt Nam, những sự tàn sát tín đồ Ca-tô Giáo không chỉ là một biểu thị của sự hoang mang chính trị. Nó có một mục đích thực tế là đánh thẳng vào một chiều kích đáng kể trong nỗ lực quân sự của Pháp. Về phần Pháp, sau những do dự ban đầu (Tài liệu 106), đã tận dụng những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam như là các trợ quân trong cuộc chiến. Những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam được sử dụng làm cu-li, thông ngôn và lính chiến đấu; và giáo dân Việt Nam đã góp tiền tổ chức những lực lượng riêng thí dụ như “đoàn quân Joseph” khoảng 7000 người.. Thật vậy, như Giám mục Puginier đã vạch rõ, Giáo dân rất hữu dụng trong việc lấy tin tức tình báo quân sự về những sửa soạn của kháng chiến quân Việt Nam và về sự chuyển quân của quân Trung Hoa (Tài liệu 116). Một đạo luật chống Công giáo mà Thuyết (Tôn Thất) ban ra năm 1885 xác nhận là chính cái nhiệm vụ lấy tin tức tình báo này của những cộng đồng Ca-tô giáo mới thật là đáng sợ (Tài liệu 113).”
Nguyên văn:

(…From a Vietnamese point of view, the massacres of Christians were not merely an expression of political frustration. It served a practical purpose in striking at a significant dimension of French military effort. For the French, after initial hesitations (Doc. 106), were making considerable use of Vietnamese Christians as axiliaries in the war. Christian Vietnamese were employed as coolies, interpreters and miliciens; and Vietnamese Christians also financed and organized privates forces such as the “armée Joseph”, a body of about 7000 irregulars.. Above all, as Bishop Puginier pointed out, Christians were useful in gathering field intelligence on Vietnamese resistance preparations and on Chinese force deployments (Doc. 116). A later anti-Christian decree of Thuyet, issued in 1885, confirms that it was the intelligence gathering function of the Christian communes that was particularly feared (Doc. 113).

Các masoeur đang đưa tin tức gián điệp cho tên ác ôn Leroy ở Bến Tre.

Những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam hợp tác và làm tay sai cho quân xâm lăng Pháp, ngay từ ngày đầu cho tới ngày cuối, nay đã là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận, và đó không chỉ là những cá nhân giáo sĩ hay cá nhân giáo dân mà là cả tập thể Ca-tô Giáo dưới sự lãnh đạo tinh thần của các bề trên.. Người Ca-tô nào phủ nhận những sự kiện này, xin mời lên tiếng. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn viết về giai đoạn lịch sử Việt Nam trên của Mark L. McLeod, Ibid., trg. 45-47:

“Vai trò của những tín đồ Ca-tô giáo trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp – Tây Ban Nha là gì?.. Sự thực là, theo những tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp thì, ngay từ tháng 9, 1858, nhiều toán tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam đã tới liên lạc với những đoàn quân chiến đấu của Tây phương. Rigauld de Genouilly (tướng chỉ huy liên quân Pháp – Tây Ban Nha ở Đà Nẵng; TCN) đã họp họ lại thành hai chi đội và huấn luyện họ trong một doanh trại ở Tiên Trà. Một trong hai chi đội trên chiến đấu sát cánh với quân Pháp – Tây Ban Nha ở Đà Nẵng, còn chi đội kia di chuyển xuống miền Nam, dự phần chiến đấu trong cuộc xâm lược “lục tỉnh” và họ đã dự trận Kỳ Hòa. Sau trận Kỳ Hòa, những lính chiến đấu Ca-tô giáo Việt Nam đã phục vụ những người Tây phương ở Đà Nẵng tiếp tục phục vụ người Pháp, làm lính chiến, thông ngôn, cu-li và thám báo, trong những vùng chiếm được ở miền Nam. Vì những dịch vụ này, họ được Đô Đốc – Toàn Quyền de la Grandière ban thưởng cho một số đất quanh vùng Sài-gòn.

Trong cuộc xâm lược của liên quân Pháp – Tây Ban Nha từ 1858 đến 1862, những biện pháp cấm đạo của Vua Tự Đức càng ngày càng khắc nghiệt và dễ hiểu. Đó chính là vì Triều đình Huế tin rằng những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam đã hỗ trợ những đoàn quân xâm lăng. Những đạo Dụ trong thời chiến này thường nhằm mục đích ngăn cản những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam liên lạc với những lực lượng Pháp – Tây Ban Nha. Thí dụ, một đạo Dụ ban hành vào tháng 5, 1859, nêu rõ rằng, khi nghe tin thành Saigon thất thủ, những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam ở miền Nam đã lợi dụng tình thế để khủng bố người “lương” hay “tốt” (nghĩa là, người phi- Công giáo) và đi làm “tay sai và mật thám cho Tây Dương”.

.. Theo quan niệm của Vua Tự Đức thì sự khắc nghiệt của những đạo Dụ cấm đạo trong thời chiến rất là chính đáng, vì những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam “đã mang người Tây Dương vào trong xứ sở.”

…Với những tài liệu hiện hữu, chúng ta chỉ có thể kết luận là triều đình nhà Vua tin rằng những tín đồ Ca-tô giáo đã giúp đỡ quân đội Pháp và Tây Ban Nha, và triều đình không hẳn là hoàn toàn sai lầm trong nhận thức này. Do đó, những đạo Dụ chống Ca-tô giáo quá khắc nghiệt của Vua Tự Đức trong thời chiến chỉ nhằm mục đích ngăn ngừa tín đồ Ca-tô giáo bản xứ khỏi phối hợp cới những lực lượng xâm lược.”

Nguyên văn:

(What was the role of the Vietnamese Catholics during the Franco-Spanish invasion?… In fact, French archival sources show clearly that, as early as September 1858, groups of Catholics began to reach the embattled European armies. Rigauld de Genouilly formed the men into two indigenous detachments and trained them at a camp at Tien Cha. One of these detachments fought alongside the Franco-Spanish soldiers at Da-nang; the other went southward to participate in the invasion of the “luc tinh” and fought in the battle of Ky Hoa. After the battle of Ky Hoa, the indigenous Catholics militamen who entered the service of the Europeans at Da nang continued to serve the French in the occupied south as soldiers, interpreters, coolies, and guides. They were rewarded for their services by Admiral-Governor de la Grandière, who granted them concessions of land in the Saigon area.

During the Franco-Spanish invasion of 1858-1862, the Tu Duc Emperor’s interdictions of Catholicism grew increasingly severe and comprehensive. This was primarily because the Hue court believed that the Vietnamese Catholics supported the invading armies. The wartime edicts were thus largely directed to the problem of preventing the Vietnamese Catholics from communicating with the Franco-Spanish forces. An edict of May 1859, for example, stated that, upon hearing of the fall of the Saigon citadel, the Vietnamese Catholics of the south were taking advantage of the situation in order to terrorize the “luong” or “good” (that is, non-Catholics) people and to serve as “lackeys and spies for the Westerners”.

… The severity of the wartime edicts was justified, in the emperor’s opinion, because the Catholics had “brought the Westerners into the country.”

…With the existing documentation it can only be concluded that the imperial court believed that the Catholics were aiding the French and Spanish troops and that the court was not entirely wrong in this perception. Accordingly, the Tu Duc Emperor’s wartime anti-Catholic edicts reached new extremes of severity primarily in order to keep the indigenous Catholics from linking with the invading forces.)

Đọc lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn Francis Garnier chiếm thành Hà Nội và các tỉnh lân cận như Phủ Lý, Nam Định, Hải Dương v..v.. chúng ta sẽ thấy sự thực về vai trò cộng tác, tiếp tay, hỗ trợ của giáo dân Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam cho những đoàn quân xâm lăng ngoại quốc như thế nào. Mark L. McLeod, Ibid., trg. 114-122:

“Bản chất và mức độ hỗ trợ những đoàn quân viễn chinh Pháp của những tín đồ Ca-tô giáo là như thế nào?

Những thư từ liên lạc và phúc trình của Balny và Harmand được Garnier phái đi chinh phục nhiều tỉnh lỵ và những điểm trọng yếu trong miền đồng bằng, cho chúng ta thấy một kiểu hỗ trợ đáng kể của những tín đồ Ca-tô giáo bao gồm – nhưng không chỉ giới hạn ở – những nhiệm vụ hành chánh và quân sự. Những nguồn tài liệu này cũng cho chúng ta thấy một kiểu xoay sở lẫn nhau giữa các sĩ quan Pháp và các thừa sai Ca-tô giáo với kết quả là những kẻ “tình nguyện” thường cũng được lợi bằng hay hơn những sĩ quan Pháp.

… Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Ca-tô giáo và các lực lượng quân sự Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam, quân đội Pháp đã nhận được một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng tác viên Ca-tô giáo dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo Ca-tô giáo đã dùng sức lao động (của tín đồ Ca-tô giáo bản xứ; TCN), tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để thực hiện sự tàn sát liên miên người “lương”, mạo phạm những công trình xây dựng của Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi- Ca-tô, và cướp bóc những thành phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín đồ Ca-tô giáo thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ.

Nguyên văn:

(What was the nature and extent of the assistance that the Catholics brought to the French expedition?

The correspondence and reports of Balny and Harmand, who were dispatched by Garnier to obtain the submission of many of the provincial citadels and strongpoints of the delta, reveal pattern of significant Catholic assistance that included – but not limited to – formal administrative and military duty. These sources further reveal a pattern of mutual manipulation by French officers and Catholic missionaries in which the “volunteers” often had as much or more to gain from the relationship as did the French officers.

…It is useful to consider Balny’s actions at Phu Ly and Hai-duong and Harmand’s at Nam-dinh with an emphasis on the relationship between Catholic Missions and the French forces. The analysis reveals that the French were far from alone in their attacks on the loci of Vietnamese authority because the invaders received a significant level of support from the missionaries and the Vietnamese Catholics. Moreover, the methods of the French officers and their Catholic collaborators could hardly be considered as evidence of a superior morality even by their own contemporary standards, for the Catholic Missions exchanged labor, resources, and information in return for French assistance in perpetuating summary executions, desecreations of Buddhist religious edifices, burning of non-Catholic villages, and pillaging of imperial citadels. This Catholic collaboration with French imperialism has not been adequately recognized by historians, but it was a significant contributing factor to the French success in Tonkin.)

Trong cuốn sách của Mark L. McLeod và trong nhiều cuốn khác, có rất nhiều chi tiết về sự cộng tác của những tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam với đầy đủ tài liệu. Tôi không thể đưa hết vào trong bài này vì nó quá chi tiết và dài, cho nên chỉ có thể đưa ra những nét đại cương. Tuy nhiên, chúng ta có thể nêu ra đây một thí dụ điển hình: nguyên nhân thất thủ trung tâm kháng chiến Ba Đình, do Linh Mục Trần Tam Tĩnh viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm:

“Cho tới khi chết ngày 25 tháng 4/1892, giám mục Puginier đã hoạt động không ngưng nghỉ ngày nào để củng cố địa vị của nước Pháp tại xứ ông đã nhận là quốc gia mới. Người ta còn giữ được mấy chục bản ghi chú và những tin tức tình báo có mang chữ ký của ông trong những Văn Khố của Bộ Thuộc Địa. Một phần nhờ vào các tin tức tình báo của giám mục mà quân Pháp có thể dẹp tan quân đội kháng chiến của Việt Nam. Trung tâm kháng chiến khốc liệt nhất là ở Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Đó là một làng được tăng cường bởi một vòng đai lũy tre, những ụ kháng chiến, những hầm trú ẩn, và một hệ thống hầm giao thông được xếp đặt một cách tinh vi. Để “bình định” làng này, quân đội Pháp đã kéo tới 2,250 binh sĩ với 25 khẩu đại bác, 4 tàu chiến dưới sự chỉ huy của đại tá Metzinger. Cuộc tấn công của Pháp ngày 18 tháng 12/1886 bị đẩy lui. Quân Pháp bao vây để tìm kiếm một chiến thuật mới. Sung sướng thay cho họ, một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre (sau này trở thành thống chế nổi tiếng của Pháp trong đệ nhất Thế Chiến), đã nghĩ đến việc cầu sự trợ giúp của Trần Lục, cha xứ Phát Diệm và là Phó Tướng đặc trách bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tịnh. Trần Lục, được giám mục Puginier ban phước lành, và mang 5000 giáo dân Ca-tô giáo đến giúp quân Pháp. Và Ba Đình bị thất thủ.”

Từ những tài liệu dẫn chứng ở trên, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa là, nếu không có những hành động nội ứng, tiếp tay với một mức độ đáng kể của tín đồ Ca-tô giáo Việt Nam thì chưa chắc Pháp đã lập nổi nền đô hộ ở Việt Nam trong gần 100 năm. Điều này, chúng ta có thể thấy rõ trong một văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:

“Giám Mục Puginier viết rằng: “Không có các thừa sai và giáo dân Ca-tô giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ca-tô giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại.”

Nguyên văn:

(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d’ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l’impossibilité d’agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)

Trên đây chỉ là vài tài liệu trong kho tàng tài liệu rất phong phú hiện hữu. Và chúng ta nên ghi nhận là tuyệt đại đa số những tài liệu này là của các học giả, sử gia Tây phương. Từ những tài liệu trích dẫn trên chúng ta có thể thấy rõ nguyên nhân của việc cấm đạo trong thế kỷ thứ 19 tại Việt Nam, tuyệt đối không phải vì lý do tôn giáo, không phải vì những tín đồ Công giáo Việt Nam theo một đạo mới, mà cũng chẳng phải vì Vua, Chúa cùng các sĩ phu ganh ghét hay đố kỵ những thừa sai Công giáo ngoại quốc hay những kẻ tân tòng bản địa, mà lý do chính là vì người Ca-tô giáo đã phản bội quốc gia, hợp tác và làm tay sai cho giặc ngoại xâm. Khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả” của Văn Thân không phải là của Vua quan triều Nguyễn, đó là của giới sĩ phu yêu nước trước nguy cơ mất nước và nền văn hóa truyền thống của Việt Nam bị tiêu diệt bởi những một tôn giáo ngoại lai, hạ đẳng. Chủ trương của Puginier là phải tiêu diệt giới sĩ phu vì không có ai chịu theo đạo, và việc sử dụng chữ quốc ngữ để phá bỏ văn hóa tam giáo là những bằng chứng xác thực nhất để biện minh cho cuộc nổi giậy của Văn Thân và quần chúng.

Nhưng nguyên nhân cấm đạo không phải chỉ có vậy, mà nó còn nằm trong tư duy sâu thẳm của các Vua quan Triều Nguyễn, nhất là Vua Minh Mạng. Nhà Vua và các đại thần đã nhận định rất chính xác về bản chất của Ca-tô giáo La Mã được tóm tắt trong hai chữ “tà giáo”. Và ngày nay, qua những công cuộc nghiên cứu nghiêm túc của các học giả Tây phương về lịch sử và thực chất của giáo hội Ca-tô La mã, nhận định trên không phải là sai. Chúng ta cần phải trở lại quá khứ trong thời các Vua Triều Nguyễn.

Philippe Devillers có xuất bản tại Paris một cuốn sách nhan đề “Francais et Annamites: Partenaires ou Ennemis?” năm 1998. Cuốn sách này đã được dịch ra tiếng Việt bởi BS Ngô Văn Quỹ, Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006. Tôi mua được cuốn sách này trong dịp về Việt Nam tháng 6 năm ngoái. Chúng ta có thể đọc một số nhận định và tư duy của Vua quan triều Nguyễn về đạo Ca-tô trong đó.

Tác giả Philippe Devillers viết, trang 84:

Đạo Thiên Chúa bị các nhà nho coi như một sự phi lý. Vào tháng Năm năm 1857, các vị quan ở Phú Xuân (Huế) viết sớ tâu vua như sau: “Những người Thiên Chúa Giáo tin rất nhiều điều vô lý về vị chúa tể của Trời, về Trời, về Địa Ngục, về chất nước thánh (eau sainte).Những thầy tu của họ đã đem những điều này thành các bài cầu nguyện bắt họ hát lên vào buổi sáng và đọc lên vào buổi chiều, làm cho họ bị thấm nhuần đến mức không còn hiểu điều gì khác nữa.”

Các vị quan trên chắc không thể ngờ được là những nhận định của mình lại thật là quá đúng. Thật vậy, khi chúng ta nhìn thấy cảnh giáo dân đọc kinh với nét mặt ngơ ngẩn như bị bùa mê, mất hồn, và nhận thức được rằng những niềm tin vô lý về vị chúa tể của Trời (Giê-su), về Trời (Heaven), về Địa Ngục (Hell) và về chất nước thánh (Holy water) ngày nay đã không còn giá trị trong những xã hội tân tiến, ít ra là trong những giới hiểu biết, vì chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của Thiên đường và Địa ngục, cùng công nhận thuyết Tiến Hóa nên vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su chỉ còn đúng là những niềm tin vô lý, thì chúng ta bắt buộc phải nói rằng nhận định của các vị quan vào giữa thế kỷ 19 đã rất là chính xác và sáng suốt.

Devillers viết về Vua Minh Mạng như sau, trang 84:

“Rất hay chữ, thấm nhuần khoa học (và triết học) của Phương Đông, ông rất ít coi trọng nền khoa học của Phương Tây, mặc dù ông được biết khá rõ về nó qua nhiều cuốn sách các nhà truyền giáo đã dịch và trình lên. Có một trí thông minh hiếm có, có nhiệt tâm, chân thành tận tụy với đất nước, có một nhân cách kiên quyết và quyền uy… Ông căm ghét đạo Thiên Chúa “mặc dù ông đã nghiên cứu nó rất cặn kẽ và đã cho dịch những cuốn sách chính yếu về đạo này” bởi những nhà truyền giáo đến ở Huế.”

Nhưng tại sao Vua Minh Mạng lại căm ghét đạo Thiên Chúa. Vì ông ta đã nhìn thấy bản chất của Thiên Chúa Giáo qua những cuộc xâm lăng của thực dân Anh trong vùng. Devillers viết, trang 76: “Ngay từ ngày 17 tháng Năm năm 1817, đức ông Labartette, người kế nhiệm đức ông Pigneau de Béhaine đứng đầu tòa giám mục, đã viết thư cho Bộ Trưởng Ngoại Giao như sau: “Ông ta (hoàng tử kế vị Phúc Đảm) khen ngợi người Nhật đã cấm, và bãi bỏ đạo Thiên Chúa trong nước họ”

Trang 77: “Minh Mạng là người rất hâm mộ nước Nhật, thường hay kể lại câu chuyện sau đây: “Vào năm 1600, một hoa tiêu người Tây Ban Nha, bị đắm thuyền trong lãnh hải của Nhật đã bơi dạt vào một bãi biển của Osaka. Được dẫn đến Edo và bị một bộ trưởng xét hỏi, hắn khai là một thần dân của vua xứ Tây Ban Nha, vị quốc vương hùng cường nhất trên trái đất này. Vị bộ trưởng hỏi hắn: “Làm sao mà một ông vua có thể chiếm được nhiều đất trên thế giới?” Người lính thủy trả lời: “Bằng tôn giáo và bằng vũ khí. Các nhà tu hành của chúng tôi mở đường bằng cách quy đạo Thiên Chúa cho các dân tộc. Sau đó bắt họ thần phục nước Tây Ban Nha chỉ còn là một trò chơi đối với chúng tôi.” Câu trả lời dại dột này đã gây ra sự tiêu diệt tất cả những người Thiên Chúa Giáo ở Nhật, và sự đóng cửa của đất nước này đối với người nước ngoài. Hoàng đế Minh Mạng thường hay nhắc đến những lời nói trên. Chúng đã đến tai ông và chắc chắn là đã ảnh hưởng đến ý thức của ông. Đó là nguyên nhân của những cuộc truy bức đẫm máu đã đánh dấu triều đại của ông.”

Tài liệu của Devillers cho chúng ta thấy rõ một sự thực về đạo Thiên Chúa: “Đạo đi trước, cướp nước đi sau”, vua Minh Mạng đã thấy rõ hiểm họa này, và lịch sử truyền đạo ở Việt Nam cũng đã chứng minh sự kiện này. Thật là đau buồn, chẳng qua vì vận nước nên Việt Nam không thoát khỏi hiểm họa này, phải chịu nhục cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ.

Vua Tự Đức, nối nghiệp ông vua yếu đuối nhu nhược Thiệu Trị, cũng đã nhìn thấy vấn nạn Thiên Chúa Giáo. Tháng 8 năm 1848, vua Tự Đức ban bố một dạo dụ chống những người Thiên Chúa Giáo, xác định lại những đạo dụ của ông, cha:

Devillers, trang 81: “Đạo Gia-Tô (Jésus – Christ) bị các đức vua Minh Mạng và Thiệu Trị bài trừ, thì dĩ nhiên là một đạo đồi bại, vì trong đạo này, người ta không cúng bái cha mẹ đã mất… Thêm nữa trong đó, người ta còn làm nhiều điều bỉ ổi…

Những thường dân đi theo cái đạo đồi bại này và không muốn từ bỏ nó đều là những kẻ ngu muội đáng thương, những kẻ đần độn thảm hại, bị các thầy tu mê hoặc. Phải thương xót chúng. Vì vậy, trong sự yêu mến nhân dân mình, nhà vua ra lệnh từ nay chúng sẽ không bị tội chết, lưu đầy hay giam cầm. Các quan sẽ chỉ trừng trị chúng một cách nghiêm khắc, rồi trả chúng về cho gia đình của chúng.”

Trang 84: “Lệnh của nhà vua (Tự Đức) vào tháng Sáu năm 1854 viết: “Tôn giáo của Jésus đến từ những kẻ Man Rợ của Âu Châu. Nó dùng hình ảnh Jésus bị đóng đinh trên thánh giá để mê hoặc trái tim của dân chúng. Nó sử dụng chất nước thánh và học thuyết gian dối về hạnh phúc trên trời để làm cho đám đông say mê. Trong tất cả các học thuyết xấu xa, không có cái nào lại gây cho thuần phong mỹ tục những tổn hại đáng thương như nó”

Devillers còn thêm một ghi chú: “Ngay từ 1750, chúa Nguyễn Võ Vương đã nhận xét rằng: “Người Âu Châu giảng dạy một tôn giáo có một cái gì như là một thứ bùa mê, cầm giữ tất cả những người theo nó, và những người ít suy nghĩ thì dễ dàng tin tưởng”. Cái sự dễ tin nguy hiểm này làm cho nhà vua phải cấm đạo đó.”

Với sự hiểu biết của chúng ta ngày nay về đạo Thiên Chúa, chúng ta thấy các bậc tiền nhân của chúng ta đã có những nhận định khá chính xác về đạo này. Nhưng chúng ta phải công nhận là, vì thấm nhuần tinh thần tam giáo, nên các vua quan triều Nguyễn tương đối không quyết liệt đối với Thiên Chúa Giáo như người Nhật. Muốn hiểu điều này, chúng ta cần biết người Nhật đã có những biện pháp như thế nào đối với Thiên Chúa Giáo. Sau đây là tóm tắt vài sự kiện, dựa trên tài liệu trong cuốn Các Giáo Sĩ Thừa Sai (Missionaries), cuốn sách đi kèm với một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, khảo luận về những thành quả truyền đạo của Ki Tô Giáo trên thế giới, của hai tác giả Julian Pettifer & Richard Bradley; và cuốn “Chủ Nghĩa Đế Quốc của Công giáo Và Sự Tự Do Của Thế Giới” (Catholic Imperialism and World Freedom) của Avro Manhattan. [Đây là một phần nhỏ trong Chương 4, cuốn Công Giáo Chính Sử, viết về sự truyền đạo trên thế giới của Thiên Chúa Giáo]

Từ đầu thế kỷ 16, Nhật Bản đã tiếp xúc với Tây phương qua những thương gia ngoại quốc, nhất là những thương gia Bồ Đào Nha. Khi đó Nhật Bản hoan nghênh những sự trao đổi ý kiến và trao đổi hàng hóa và mở cửa cho thông thương tự do. Tuy nhiên, theo sau các thương gia là những thừa sai Ki Tô Giáo, nhất là những thừa sai Ca-tô giáo, tới để truyền đạo. Muốn hiểu hiện tượng trên, tưởng chúng ta cũng nên nhắc lại là:

“Vào cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca-tô giáo cái quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào trong giáo hội Ca-tô. Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của gìới linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào niềm tin Ca-tô giáo.”

Nguyên văn:

(Missionaries, trg. 132-133: By the end of the fifteenth century, Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever could be seized in Asia and Africa. It was decreed that along with territorial gains would go the duty to incorporate any native peoples into the Catholic Church…With the invading armies came priests and friars whose presence justified the subjugation of the people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the faith.)

Nếu các giáo sĩ Ca-tô giáo chỉ giới hạn trong việc truyền bá tình thương của đạo Chúa thì chắc chắn Nhật Bản và các nước khác ở Á Châu sẽ để cho họ tự do, nhất là Việt Nam, một dân tộc đã nổi tiếng là hiếu khách và không hề có chuyện kỳ thị tôn giáo. Nhưng, do sự cực đoan tôn giáo của Ca-tô giáo là Giáo hội Ca-tô phải thống trị giáo dân trong tất cả những lãnh vực tôn giáo, đạo đức, xã hội, chính trị v..v.., kết quả là các cộng đồng Ca-tô ở Nhật Bản đều phải đặt dưới quyền thống trị của Vatican. Theo giáo điều Ca-tô giáo, Giáo hội không cho phép những người dân Nhật theo đạo phục tùng những người cầm quyền như là một người dân trong một nước. [Điều này cũng xẩy ra ở Việt Nam] Những người gia nhập Giáo hội Ca-tô đương nhiên tự biến họ thành những thuộc hạ của Giáo Hoàng. Một khi sự trung thành đã chuyển sang một thế lực ngoại quốc ở ngoài đất Nhật, các giáo dân trở thành bất trung đối với những nhà cầm quyền Nhật Bản. Điều này rất nguy hại cho sự an ninh của Nhật, quốc nội cũng như quốc ngoại.

Vì Ca-tô giáo dạy rằng đạo Ca-tô là đạo duy nhất chân thật, các tín đồ Ca-tô Nhật đã phát động tinh thần bất khoan nhượng tôn giáo, và khi ở vị thế có quyền hành, tìm cách xóa bỏ các tôn giáo khác bằng bạo lực. Điều này đã gây nên những xáo trộn trong xã hội. Bất cứ ở nơi nào mà Ca-tô giáo chiếm đa số trên đất Nhật thì ở nơi đó Phật Giáo và các tôn giáo khác đều bị chèn ép. Chùa chiền bị phá hủy, đóng cửa hay chiếm đoạt để làm nhà thờ. Trong nhiều trường hợp, Phật tử bị cưỡng bách theo đạo, từ chối có thể bị tịch thu gia sản hay xử tử. (Những người sống ở miền Nam, nhất là vùng Nam, Ngãi, dưới triều Ngô Đình Diệm chắc chắn chưa quên những cảnh này).

Trước tình thế quốc gia như vậy, những nhà cầm quyền Nhật Bản, Hideyoshi rồi Ieyasu, thay đổi thái độ và bắt đầu từ năm 1614 Ieyasu đưa ra một chính sách để đối phó với những xáo trộn mà các giáo sĩ và giáo dân Ca-tô giáo đã gây ra:

“Mọi công dân Nhật theo đạo được lệnh phải bỏ đạo; các nhà thờ và tu viện Ca-tô giáo bị phá hủy, tài sản đất đai bị tịch thu, và tất cả linh mục ngoại quốc được lệnh phải rời khỏi các xứ đạo, tập trung tại Nagasaki để chờ tống xuất.”

Sắc lệnh này chưa kịp thi hành thì “một sắc lệnh khác khe khắt hơn được ban hành, và sự đàn áp tôn giáo trở thành tàn nhẫn hơn và tiếp tục cho tới khi mọi vết tích công khai của Ki Tô Giáo bị phá hủy.”

Nguyên văn:

(Missionaries: A further decree, much fiercer in tone, set in train a ruthless persecution that continued until all overt vestiges of Christianity had been destroyed.)

“Khi sắc lệnh trục xuất thứ hai được ban hành, một số thừa sai rời khỏi nước Nhật nhưng nhiều vị ở lại và toan tính tiếp tục gây dựng ngầm các xứ đạo. Tất cả đều bị săn lùng và hành quyết.

Toàn thể các cộng đồng Ki Tô phải chịu đựng những biện pháp cấm đạo. Họ bị cưỡng bức giẫm lên hình tượng của Mẹ Maria bồng Con khắc trên những bản nhỏ, ai từ chối đều bị hành quyết. Hình phạt thông thường là đóng đinh, nhưng được thay đổi một cách ác độc, nạn nhân bị đóng đinh đầu ngược xuống đất và ở bờ biển. Khi thủy triều lên họ bị chết ngộp dần dần.”

Nguyên văn:

(When the second decree of expulsion was promulgated, a number of missionaries left Japan but many remained and tried to continue their ministry in hiding. All of them were hunted down and put to death.. . Whole communities were put to the test. They were forced to trample upon a fumie, a small plaque bearing a carved image of the Virgin and Child, and those who refused were executed. Crucifixion was the usual fate, but, in a cruel refinement, the victims were crucified upside down on the shoreline. As the tide came in, they slowly drowned. )

Vào thời điểm này, những tín đồ Ca-tô giáo ở Nhật bắt đầu tổ chức võ trang chống lại chính quyền. Cuộc chiến bùng nổ vào mùa đông năm 1637 tại Shimbara và tại đảo Amakusa, những vùng hầu như toàn tòng Ca-tô giáo. Những cộng đồng Ca-tô giáo này, cầm đầu bởi các linh mục Tây phương, công khai chống lại chính quyền.

Chính quyền Nhật, sợ rằng các toán giáo dân đó liên kết với những giáo dân Ca-tô Tây phương và bị Bồ Đào Nha dùng làm phương tiện để chiếm đất đai của Nhật, đánh thuế rất nặng trên những cộng đồng này. Các linh mục dòng Tên tổ chức một đạo quân khoảng 30000 giáo dân Nhật, với cờ xí mang tên Giê-Su, Maria, Thánh Iago, tiến quân đối đầu với đại diện chính quyền về dân sự và quân sự ở địa phương, và nhiều cuộc chiến đẫm máu đã xảy ra trong vùng Shimbara và vùng vịnh Nagasaki. Giáo dân giết luôn Thống Đốc ở Shimbara và rồi cố thủ trong một thành lũy kiên cố khi quân chính phủ kéo đến dẹp.

Với vũ khí thô sơ, chính quyền Nhật phải nhờ đến sự trợ giúp của Hòa Lan (theo Tin Lành) về súng đại bác và tàu chiến. Hòa Lan ưng thuận, và giúp chính quyền san thành bình địa nơi cố thủ của các giáo dân và hầu như tất cả các giáo dân trong đó đều bị tàn sát.

Kết quả cuộc nổi loạn của giáo dân này là một đạo Dụ bài Ngoại của chính quyền Nhật Bản ban hành năm 1639 (Manhattan, Catholic Imperialism and World Freedom) trg. 361:

“Trong tương lai, chừng nào mà mặt trời còn soi sáng thế giới, không một ai được phép nhập cảnh Nhật Bản, ngay cả với tư cách là đại sứ…”

Nguyên văn:

(For the future, let none, so long as the Sun illuminates the World, presume to sail to Japan, not even in the quality of ambassadors…)

Đạo Dụ trên được áp dụng cho mọi nước Tây phương, trừ Hòa Lan vì Hòa Lan đã giúp phương tiện cho chính quyền Nhật dẹp cuộc nổi loạn của các giáo dân Ca-tô giáo. Nhưng ngay cả đối với người Hòa Lan, họ cũng bị hạn chế tối đa. Lý do: tuy họ không phải là tín đồ Ca-tô Giáo nhưng cũng là tín đồ Ki Tô Giáo. (Nevertheless, even they were put under extreme restrictions owing simply to the fact that although they were not Catholics they were Christians.)

Đối với Nhật Bản khi đó, bất cứ cái gì liên hệ đến Ki Tô Giáo nói chung đều bị nghi ngờ là có âm mưu lừa dối, chinh phục, và bất khoan dung.

Manhattan, (Ibid.,trg. 362):

“Người Hòa Lan không được phép đọc ngay cả những lời cầu Kinh Ki Tô Giáo trước mặt một công dân Nhật nào.

(The Dutch were not permitted to use Christian prayers in the presence of a single Japanese subject).

Với những biện pháp quyết liệt và tàn nhẫn đối với Ca-tô giáo nói riêng và Ki Tô Giáo nói chung, Nhật Bản đã giữ nước khỏi bị cái họa Ki Tô Giáo trong suốt hơn 200 năm, trong thời gian này trên đất Nhật không hề có bóng dáng của ngay cả một linh mục thừa sai và con chiên bản địa, đỡ hẳn mối lo âu về một số tín đồ Ca-tô giáo sẵn sàng theo lệnh các thừa sai Tây phương phản quốc, cho tới khi Đô Đốc Perry của Mỹ dùng 10 tàu chiến tấn công và uy hiếp Nhật phải mở cửa giao thương và cho truyền đạo lại vào năm 1854. Trước mối nhục vì bị thua kém về kỹ thuật và súng ống này, Nhật Bản đã quyết tâm canh tân. Năm 1866, Nhật còn là một dân tộc thuộc loại Trung Cổ. Chỉ trong vòng 33 năm, tới năm 1899, Nhật đã trở thành một cường quốc không kém các nước Tây phương. Ngoài lòng yêu nước cao độ và quyết tâm, yếu tố chính trong sự thành công canh tân của Nhật là một tình trạng xã hội, chính trị ổn định, không có một đạo quân thứ 5 nằm vùng trong lòng dân tộc và các thừa sai gián điệp chuyên gây xáo trộn trong các quốc gia để thủ lợi về mặt tôn giáo cũng như về vật chất thế tục.

Missionaries, trg. 169:

“Trong 24 năm đàn áp Ki Tô Giáo ở Nhật Bản, 62 thừa sai Tây phương đã bị hành quyết cùng với hàng ngàn giáo dân Nhật. Phải tới hơn 200 năm sau Nhật mới lại mở cửa cho các thừa sai trở lại, nhưng lòng của họ vẫn khép kín.”

Nguyên văn:

(During the twenty-four years of the great Japanese persecution, sixty-two European missionaries were put to death together with thousands of Japanese Christians. It was to be more than 200 years before the Japanese would again open their doors to missionaries but even then, they did not open their hearts.)[Cho nên, tới ngày nay, ở Nhật cũng chỉ chưa tới 2% theo Ki Tô Giáo]

Một câu ngắn gọn sau đây của Hal Dareff trong cuốn Câu Chuyện Về Việt Nam (The Story of Vietnam, trg. 28,) có thể nói lên hoàn cảnh khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam trong thế kỷ 19:

“Đóng cửa biên giới, họ (triều đình Gia Long. TCN) sẽ tránh được sự xâm nhập của người ngoại quốc với những lối sống xa lạ của họ. Bất hạnh thay, trong nước đã có những người ngoại quốc rồi – Các giáo sĩ thừa sai.”

Nguyên văn:

(By sealing off their borders, they would keep out the foreigner and his alien ways. Unfortunately, there were already foreigners in Vietnam – The Missionaries.)

Trở lại lịch sử Việt Nam, trong cuốn Người Pháp Và Người Annam: Bạn Hay Thù, Philippe Devillers có đặt một vấn đề, trang 85:

Nhưng vấn đề là phải tìm hiểu xem liệu những người Thiên Chúa Giáo Annam được các nhà truyền giáo Âu Châu quy đạo cho, có thể bị sử dụng làm những tay sai cho nước Pháp và nước Tây Ban Nha trong trường hợp có chiến tranh không? Người ngoại quốc có thể điều khiển được giáo phái này không?

Rất tiếc là tác giả không khai triển vấn đề này như McLeod hay Tuck, hay là trong bản tiếng Việt thiếu sót phần này chăng. Nhưng những tài liệu trích dẫn trong phần trên đã chứng minh rõ ràng là người Ca-tô giáo Việt Nam đã được sử dụng làm tay sai cho Pháp. Trong cuốn sách trên, tác giả chỉ kể vài sự kiện về những hành động của người Ca-tô giáo Việt Nam đối với người ngoại đạo khi có cơ hội. Sau đây là một đoạn điển hình:

Trong một bản báo cáo thảo ngày 15 tháng Một năm 1874, khi từ Nam Định trở về, Harmand ghi lại là sau khi có bản tuyên bố của Garnier tung ra lúc chiếm được thành, có những người đến xin vũ khí hay tự nguyện phục vụ, muốn được phong là huyện, thậm chí làm phủ (tiếng Việt trong nguyên bản).

Tất cả hay gần là như thế đều là những người Thiên Chúa Giáo, và một số lớn là từ tỉnh Ninh Bình tới, do những linh mục của họ cử đi. Trong hầu hết các trường hợp, những người Thiên Chúa Giáo đều tỏ ra tham lam một cách vô liêm sỉ, vừa vụng về, vừa ích kỷ. Vì chính lợi ích của họ, tôi luôn luôn làm dịu bớt sự hăng hái này. Tôi muốn phong chức càng nhiều càng tốt cho người ngoại đạo hơn là những người Thiên Chúa Giáo trước hết là để khỏi xẩy ra một sự bất bình tự nhiên trong xứ, và sau nữa là vì hầu hết những người Thiên Chúa Giáo đều ở các tầng lớp xã hội thấp kém, bị chính phủ Annam gạt ra, không am hiểu công việc, và là những người hoàn toàn mới trong việc cai trị. Thêm nữa, trong số họ rất hiếm có người biết chữ nghĩa..

Chắc chắn là những người Thiên Chúa Giáo đã giúp cho chúng ta nhiều việc lớn và đã làm cho nhiệm vụ của chúng ta được dễ dàng hơn nhưng họ cũng gây cho tôi nhiều e ngại.

Về phần chúng ta, vì đã có sự thúc đẩy như vậy, thì chúng ta ở trong tình trạng là chỉ có thể dựa được duy nhất vào họ mà thôi. [Điều này có nghĩa là người ngoại đạo không chịu hợp tác với pháp. TCN] Nhưng họ tỏ ra hết sức vụng về. Họ coi việc chúng ta đến đây như một cơ hội trả thù của họ, và họ đã để lộ quá lộ liễu việc này..

Harmand kể lại về “Một linh mục Annam đã đốt một số Chùa tuy không có sự khiêu khích nào” hay “một nhà truyền giáo Pháp có những ý nghĩ đơn giản đến mức cầm đầu một nhóm (giáo dân) 300 người để làm một cuộc chiến tranh thực sự chống những người ngoại đạo.

Ngày 20 tháng 12, Harmand đã báo cho Garnier biết về một nhà truyền giáo “đã bị sự cuồng tín của mình lôi kéo, đi tập hợp những binh lính mà trong số đó, như chính ông ta đã thú nhận, phần lớn là những tên ăn trộm cũ và những tên cướp thực sự.” Ông nói tiếp “tôi chỉ còn nhìn thấy những thầy tu. Dân chúng nghĩ rằng chính những vị này là chúa tể tuyệt đối, và tôi đã thấy ló ra một sự bất bình, phải coi là chính đáng.” Ngày 22 tháng 12, Harmand chưa biết là Garnier đã chết, vẫn báo cáo thêm với Garnier về những “sự tàn bạo khủng khiếp” của những người Thiên Chúa Giáo đối với những người ngoại đạo bị thương, và sự tàn phá hoàn toàn các ngôi Chùa.”

♰☠♰

Trên đây là những sự kiện lịch sử về Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam trong thời kỳ xâm lăng của Pháp. Chúng ta thấy rõ sự nguy hại của một tôn giáo như Ca-tô La Mã giáo. Người dân thường vốn chất phác hiền lành, nhưng bị cái bùa mê về một cái bánh vẽ trên trời (từ của Mục sư Ernie Bringas) nên họ đã trở thành những người cuồng tín, tàn bạo vì lý tưởng tôn giáo, và phi dân tộc vì chỉ còn biết đến nước Chúa, thật ra chỉ là nước do Vatican cầm đầu.

Sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam thì người Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam đã xử sự như thế nào trong đại khối dân tộc. Vấn đề này đã được Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang trình bày chi tiết trong Mục “VATICAN Và Tín Đồ Người Việt Trong Quá Trình Chống Lại Tổ Quốc VN…” trong cuốn sách sắp xuất bản “Người Việt Nam Và Đạo Giê-su” [đã đăng đầy đủ trên trang nhà sachhiem.net], viết chung với Trần Chung Ngọc, qua các giai đoạn từ 1553-1858; 1858-1945; 1945-1954; và 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam. Xin mời quý độc giả tham khảo phần nghiên cứu rất chi tiết và rất có giá trị này.]

Ở đây, tôi chỉ trích dẫn hai tài liệu chứng tỏ đường lối tiếp tay và làm nội ứng cho giặc ngoại xâm cùng hại nước hại dân của Giáo hội Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam không hề thay đổi cho tới khi nước nhà thống nhất năm 1975.

Theo Linh Mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Dieu et César thì:

“Cuối năm 1945, Việt Nam giành lại được độc lập từ tay người Pháp, lòng yêu nước của người Ca-tô giáo VN bùng lóe lên với những cuộc biểu tình của hàng chục ngàn giáo dân mang biểu ngữ và hô khẩu hiệu “Giáo Hoàng Muôn Năm”, “Giáo Hội Việt Nam của Người Việt Nam”, “Việt Nam Độc Lập Muôn Năm” (Vive le Pape, L’Église Vietnamienne aux Vietnamiens, Vive le Vietnam Indépendant.)

Nhưng rồi Linh mục Tĩnh viết:

“Vậy, với các giám mục và linh mục dẫn đầu, tín đồ Ca-tô giáo muốn phá bỏ hình ảnh của một giáo hội đã cộng tác với quân xâm lăng, một giáo hội phục vụ nước Pháp, một giáo hội đã sống ngoài lề sự tranh đấu cho chủ quyền và tự do của dân tộc. Một trang sử đã lật qua nhưng khốn thay chẳng được bao lâu”

Nguyên văn:

(Ainsi, avec les évêques et les prêtres en tête, les catholiques voulaient détruire l’image d’une église collaboratrice avec les agresseurs, d’une église au service de la France, d’une église qui avait vécu en marge d’un peuple en lutte pour sa souvenaineté et sa liberté. Une page est tournée. Mais, malheureusement pas pour longtemps.)

Tại sao? Vì theo một sắc lệnh của Giáo Hoàng Pie XII ban hành ngày 1 tháng 7 năm 1949, tuyên bố “tuyệt thông” bất cứ người nào cộng tác với Cộng sản, tuyên truyền cho CS, đọc sách báo CS v…v.. nên giáo hội Ca-tô Việt Nam lại hợp tác với quân đội Pháp, được Pháp trang bị vũ khí để lập những chiến khu “tự trị” như Bùi Chu, Phát Diệm…, lại đứng ngoài lề công cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập mới thu hồi của dân tộc Việt Nam. Tất cả chỉ vì một cái bánh vẽ trên trời và vì ngu đạo. Ngu đạo vì không biết rằng “tuyệt thông” hay “dứt phép thông công” chỉ là một vũ khí hù dọa đối với những tín đồ thấp kém, nhẹ dạ, cả tin, vì họ đã được nhồi vào đầu từ khi con nhỏ là muốn hiệp thông với Chúa thì phải đi qua các trung gian như Linh mục, Giám mục, Giáo hoàng hay “Tòa Thánh”. Nhưng đối với giới trí thức, ngay cả trong giáo hội, thì đó chỉ là một trò cười đáng khinh vì nó vô giá trị, vô nghĩa và lỗi thời. Thật vậy, trong cuốn Thần Chưa Chết: Từ Sự Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Sự Tự Do Tâm Linh, Linh Mục James Kavanaugh đã vạch rõ cho chúng ta thấy bản chất và ý nghĩa của “tuyệt thông” như sau:

Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật không gian này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo Rô-ma. TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.

Tuyệt thông, trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai Thượng đế . Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và phi-ki-tô. Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự do và trưởng thành.

Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ nhục. Có thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện con người để chiến đấu ngoài mặt trận. Những phương pháp này thực là trẻ con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng đế; nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại.

Nguyên văn:

(James Kavanaugh, God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, 39-40: I found it hard to believe that in the age of space technology a religious body could be so out of touch as to believe such a mythological penalty could have any meaning left for man.

…Excommunication had for centuries been authority’s way of playing God. It was the inhuman and unchristian denial of man’s freedom of conscience. But most of all it had been a deeply frigtened authority’s frantic effort to dominate and control men and woman rather than to direct them toward a free and mature love. Excommunication attempted to turn the religious experience into a boot camp where the officer in charge aspires to build loyal robots by smothering them with confinement and indignity. Perhaps such methods might have had meaning in preparing man for combat. They are only childish and dishonest in dealing with a man or woman’s relationship with God, but incredulously they still exist.)

Cùng một nhận xét về thái độ của người Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam sau khi nước nhà độc lập, dựa trên những sự kiện lịch sử, Cao Huy Thuần viết trong cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, trg. 547-548:

“Sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập vào tháng 8-1945, những tín đồ Thiên Chúa, trong một tình yêu nước nồng nhiệt mới mẻ hoàn toàn, đã xác định rõ rệt và long trọng lòng tha thiết với độc lập và quyền lợi dân tộc.

“Các con chiên Việt Nam, tờ Kỷ Yếu các phái bộ viết, biết rằng tương lai của tôn giáo họ được nêu lên. Nếu họ chứng tỏ được lòng yêu nước ra dưới mắt của cả nước, chắc chắn họ sẽ lấp được cái hố còn ngăn cách họ với đồng bào phi-Thiên Chúa của họ. Nếu họ khước từ, họ làm cho cái hố đó không vượt qua được. Vì thế không còn gì phải nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành động. Đa số con chiên đã lựa chọn. Được các giám mục của giống nòi họ soi sáng và ủng hộ, họ không còn muốn phạm lỗi lầm của những người trước trong thế kỷ vừa qua. Họ cương quyết không chịu làm lại tín ngưỡng mình bằng cách dính líu với chính quốc. Họ muốn bảo vệ sự độc lập của đạo Thiên Chúa bằng cách cùng làm việc với đồng bào phi-Thiên Chúa của họ cho xứng nghĩa của nền độc lập của tổ quốc.” (Giibal, Les Catholiques en Vietnam. Buổi diễn thuyết tại Trung Tâm Nghiên Cứu Á-Phi, Paris, 1953.)

Và vì thế bốn Giám mục Việt Nam lập tức lựa chọn lấy mấy lập trường vào ngày 23-9-1945, họ đã viết thư cho Giáo hoàng Piô XII nhân danh “dân tộc Việt Nam” để yêu cầu “sự ban phước lành, lòng đại lượng cùng các lời cầu nguyện để ủng hộ nền độc lập mà nó vừa mới thu hồi được và bảo vệ bằng mọi giá.” (Ibid.)

Đó là lần đầu tiên mà đạo Thiên Chúa Việt Nam chịu hòa mình trong cộng đồng dân tộc và gắn liền quyền lợi của họ vào quyền lợi đất nước. Nhưng than ôi! Tia lửa yêu nước vụt tắt ngay mấy tháng sau, Pháp đổ quân vào Việt Nam, chiến tranh Đông Dương bùng nổ và tín đồ Thiên Chúa lại hợp tác với ngoại bang.

Đọc hai đoạn văn trên của Linh mục Trần Tam Tĩnh và Tiến sĩ Cao Huy Thuần, tôi cho rằng cả hai vị đều đánh giá quá cao “lòng yêu nước bùng lóe lên nhưng rồi lại tắt ngấm” của những tín đồ Ca-Tô Việt Nam trong thời kỳ nước nhà mới thu hồi nền độc lập.

Thứ nhất, một người Việt Nam yêu nước thực sự thì không bao giờ cần đến sự ban phước lành của Giáo hoàng cho nền độc lập của nước nhà, bởi vì Giáo hoàng và Giáo hội Ca-tô La Mã đã đóng vai chủ chốt trong việc xâm chiếm nước Việt Nam, đặt Việt Nam dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, điều này đã được chứng minh rõ ràng trong những tài liệu đã trích dẫn ở trên. Chưa kể là phép lành của Giáo hoàng thì có giá trị gì đối với hơn 90% dân chúng Việt Nam phi – Ca-tô, đó chỉ là một thứ thần quyền tự nhận của Giáo hoàng để ngự trị đám tín đồ thấp kém ở dưới? Lịch sử Ca-tô Giáo ghi không thiếu gì những giáo hoàng vô đạo đức, là kẻ loạn dâm, sát nhân v…v…

Thứ nhì, bốn giám mục không thể nhân danh “dân tộc Việt Nam” để mà quỵ lụy trước Giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican, xin xỏ ân huệ “ban phước lành” không cần thiết và vô giá trị cho nền độc lập của Việt Nam. Nền độc lập của Việt Nam là một thực thể tuyệt đối, được xây dựng bằng công ơn của tổ tiên và xương máu của những người dân Việt yêu nước, không dính dáng gì tới một tôn giáo mà thực chất “không thể tiêu hóa nổi” trong xã hội Việt Nam. Nếu các giám mục nhân danh con chiên của họ, vào khoảng 7% dân số Việt Nam thì đó là quyền của họ, nhưng họ không thể nhân danh “dân tộc Việt Nam” được. Dân tộc Việt Nam cương quyết từ khước “phép lành” của Giáo hoàng nếu thực sự ngài kém cỏi đến độ nghe theo lời cầu xin của bốn giám mục Việt Nam và cưỡng ban phép lành trên đầu dân tộc Việt Nam.

Qua những tài liệu trong bài này, chúng ta có thể thấy ngay rằng, ngay từ buổi đầu, Giáo hội Ca-tô Việt Nam đã tự tạo cho mình một hình ảnh không mấy tốt đẹp trong lòng đại khối dân tộc Việt Nam. Dù vậy, người Việt Nam luôn luôn chủ trương “dĩ hòa vi quý” và mong muốn có sự hòa hợp tôn giáo trong đại khối dân tộc. Nhưng sự hòa hợp này chỉ có thể thực hiện với một số điều kiện.

Những điều kiện này đã được Tiến sĩ Cao Huy Thuần nêu lên trong cuốn Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, trg. 548:

“Đã biết bao lần người Việt Nam phi-Thiên Chúa đã cho đồng bào Thiên Chúa của họ hiểu rằng họ tôn trọng tôn giáo của Chúa Christ như tôn giáo họ (nếu tôn giáo của Chúa Christ trở thành một tôn giáo của Việt Nam, mang đặc tính Việt Nam, và không lệ thuộc bất cứ thế lực tôn giáo nào; TCN), rằng sự cuồng tín tôn giáo là điều tuyệt đối xa lạ với tinh thần Việt Nam và rằng đạo Thiên Chúa Việt Nam chỉ thật sự có tính cách dân tộc – điều mà mọi người hết lòng mong muốn – khi nào nó đóng góp phần mình cho độc lập và thịnh vượng đất nước – dù có phải vì thế mà chịu thiệt – chứ không làm cho đất nước nô lệ như trong dĩ vãng.”

Như vậy, con đường trước mặt của Giáo Hội Ca-tô Việt Nam đã rõ ràng, “không còn gì phải do dự và nghi ngờ về bổn phận nữa, chỉ còn phải theo đó mà hành động.”

Thế nhưng, bỏ qua những hoạt động phi dân tộc từ trước, vụ đòi đất tòa Khâm Sứ gần đây với những hành động hung hăng cuồng tín của giáo dân, dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, rồi phải cum cúp theo lệnh từ Vatican, đã cho chúng ta thấy rõ, Ca-tô La Mã giáo ở Việt Nam vẫn chưa thoát ra được khỏi cái vòng kim cô đã xiết trên đầu họ qua bao thế kỷ. Thật vậy, gần đây, trong bức thư gửi Hồng Y Bertone ở Vatican, giáo sư Ca-Tô Nguyễn Học Tập đã khẳng định tâm cảnh nô lệ của các giáo dân VN đối với Vatican như sau:

Trước hết chúng con là con cái Giáo Hội, luôn luôn trung thành với Giáo Hội Tông Toà của Thánh Phêrô, như lịch sử trên bốn thế kỷ nay của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã chứng minh.

Nếu đã trung thành với giáo hội tông tòa của thánh Phê-rô [Các học giả ngày nay đã chứng minh là cái mà giáo hội Ca-tô gọi là Giáo Hội Tông Toà của Thánh Phêrô chỉ là sản phẩm ngụy tạo của Ca-tô giáo khi xưa để tự tạo quyền lực tâm linh và vật chất trên đám tín đồ thấp kém chứ không hề có căn bản trong Tân ước] thì không thể trung thành với quốc gia. Bởi vì quyền lợi của giáo hội Ca-tô hoàn vũ luôn luôn xung đột với quyền lợi của quốc gia, nếu quốc gia này không phải là một quốc gia Ca-tô, và không bị Ca-tô giáo thống trị.
“Ôn cố để đề phòng tân”, tôi hi vọng Nhà Nước cũng như quốc dân đồng bào hãy nhận rõ bản chất của những người Ca-Tô La Mã giáo ở Việt Nam để có thể đưa ra những biện pháp giáo dục ngõ hầu đưa những con dân của đất nước trở về với đất nước.
Mong vậy thay.


© GS Trần Chung Ngọc

© Đạo Sĩ Chăn Gà

😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍