Hang Chà Mần sâu hun hút. Ánh sáng lọt qua cửa hang hòa với bóng tối mờ mờ. Mùi ẩm mốc bốc ra. Ngọn đuốc cà-boong chảy rần rật không đủ chiếu sáng khắp hang. Đống củi sưởi lớn cháy rừng rực, khói um.

Trong hang yên tĩnh. Lúc lúc, nghe rõ tiếng những giọt nước từ trên nhũ đá rơi xuống lách tách. Dơi núi bay nhớn nhác, kêu chít chít trên nóc hang.

Ngoài cửa, bọn phỉ đi đi lại lại, trên mình quấn đầy những tấm vải đủ màu, cướp được ở kho mậu dịch Mèo Vạc, Lũng Phìn chưa may kịp quần áo, trông cứ như các vị sư mặc áo cà sa.

Giữa hang, có một tảng đá phẳng phủ tấm vải hoa làm bàn thờ, ngọn nến leo lét cháy. Một ống thủy tinh pha lê trong suốt, ngoài dán một lá bùa bằng giấy điều, trong đựng những chiếc thẻ ngà khắc chữ Hán nhỏ li ti. Một bài vị sơn đen; một con ngựa và một khẩu súng lục làm bằng giấy tráng vàng… đặt trên bàn thờ.

Vàng Chúng Dình quỳ trên tấm da hổ. Mình khoác tấm áo lông xù to. Màu vàng trên tấm áo nhập nhòe trong ánh lửa ngọn đuốc cà-boong.

Hai bên tả hữu, Lý Nhè Lùng, Giàng Sàng Sấn, Vàng Vạn Sình, Sần Sè Lử, Hầu Sè Chú… cùng các tướng phỉ ngồi im lặng như những pho tượng.

Dình nhìn các tướng một lượt, rầu rầu nói:

– Hỡi các vị chỉ huy! Qua những trận giao tranh cực kỳ anh dũng với quân Cộng sản xâm lăng, nhiều tướng lĩnh và chiến sĩ quân đội giải phóng Đồng Văn ta đã hy sinh xương máu mình cho mảnh đất linh thiêng, Tổ tiên Mèo ta để lại này. Giờ đây chúng ta hãy giành một khắc cầu siêu những người đã hy sinh vì Tổ quốc đó!

Lý Nhè Lùng chạy lên, cất giọng hô:

– Tất cả hãy chú ý! Một khắc cầu siêu bắt đầu!

Tất cả im lặng cúi đầu. Không khí yên tĩnh lạ thường. Nghe cả tiếng đuốc cháy rần rật, tiếng dơi chít chít trên nóc hang. Cây hương tỏa khói. Chấm đỏ chạy từ từ xuống chân hương.

– Thôi! – Lùng kết thúc,

Dứt tiếng hô, Dình cắm ba nén hương vào bát hương, quỳ trên tấm da hổ, hai tay nâng ống thẻ ngang mặt. Đôi mắt nhắm lại theo thế “nhập định”. Những đường nét trên khuôn mặt trắng xanh, xương xương lộ rõ vẻ suy nghĩ đăm chiêu.

Tiếng khấn rì rầm vọng ra:

– Cúi lạy Thánh thần, con từ đất Bắc xa xôi, theo tiếng gọi của Tổ tiên người Mèo, đến đất này chiêu mộ binh sĩ, tiêu diệt bọn Cộng sản, giải phóng Đồng Văn, bảo tồn dòng dõi người Mèo, giành lại khí thiêng sông núi. Hiện nay quân Mèo và Cộng sản đang giao chiến, chưa phân thắng bại. Nhưng chúng con gặp nhiều trắc trở. Mỗi người thất tán một nơi, quân sĩ hao hụt nhiều, quân Cộng sản đang tràn đi như nước lũ. Nếu cứ nằm im sẽ bị tiêu diệt, chúng con định vào tết mồng 5 tháng 5 này sẽ tấn công quân Cộng sản.

Con lòng thành xin quẻ thẻ này mong Thánh thần phù hộ. Nếu hợp thiên thời, địa lợi, nhân hòa hoặc nếu thấy thời cơ chưa thuận, lòng dân chưa hòa, chúng con cần náu mình chờ thời cơ thì thánh thần báo ứng cho, để chúng con định liệu!

Khấn xong, Chúng Dình xóc xóc ống thẻ. Một chiếc thẻ chồi lên, rơi xuống tấm da hổ.

Dình vái thêm ba vái rồi cúi xuống nhặt chiếc thẻ, chăm chú đọc. Bấm đốt tay, Dình nhẩm tính: “Tý, Sửu, Dần, Mão…, kim, mộc, thủy, thổ…”

Bỗng nét mặt rạng rỡ hẳn lên, hắn reo to:

– Trời phù hộ, trời phù hộ ta!

Hắn đặt ống thẻ lên bàn thờ, quay lại nhìn các tướng phỉ đang quỳ xung quanh hồi hộp chờ đợi, cất giọng sang sảng:

– Ta vừa gieo quẻ xin Thánh thần phù hộ, Thánh thần báo ứng cho ta biết, chúng ta đang gặp thời cơ. Vì thế, ta định ngày 5 tháng 5 tới sẽ khởi sự, các vị thấy thế nào?

– Thánh thần cho phép thì ta cứ tiến đánh. Nhất định sẽ thắng lợi.

Những tên tướng khác tung hô tán thành. Chúng Dình ra lệnh:

– Ta định, trong khi chờ đợi, các vị về ngay những nơi cát cứ, tập hợp binh mã, chờ ngày xuất quân!

Dình tiễn các tướng về các ngả rồi sai em là Vàng Mí Va về Trung Quốc chiêu mộ thêm người, đặc vụ, viện cho Đồng Văn.

Các tướng phỉ lục tục ra về. Trong hang còn lại Dình và mấy tên thân cận. Không khí trở lại yên tĩnh.

Dình sai mang rượu ra uống. Càng uống hắn càng thấy buồn. Và bỗng dưng, hắn nhớ nhà.
Hình ảnh vợ con chập chờn hiện ra, nhập nhòe trong cơn say.

Hắn nốc hết cốc này đến cốc khác cho đến tàn đêm.

*

Dình vừa tỉnh rượu thì một tên phỉ hốt hoảng vào báo:

– Thưa Tổng tư lệnh, đội quân tuần tiễu của chúng ta vừa bắt được một kẻ lạ mặt. Tên này nói cần gặp ngài. Hỏi thế nào nó cũng không khai. Ngài ban lệnh.

Vàng Chúng Dình suy nghĩ một thoáng rồi ra lệnh:

– Cho vào!

Hai tên điệu vào một người mặc quần áo tả-pú-đen, đầu đội mũ cát-két, nét mặt thản nhiên, không hề tỏ ra sợ hãi.

Dình đập tay xuống tấm da hổ:

– Mày là do thám của Cộng sản hở, hay định vào đây làm thích khách? Quân bay, chuẩn bị hành hình cho ta!

Tên lạ mặt bình tĩnh nói:

– Thưa ngài Tổng tư lệnh, trước giờ hành quyết xin gửi ngài bức thư này đã!

Nói rồi, người lạ mặt lấy dao rạch áo, móc ra một bức thư bằng giấy bản, trình lên Dình. Chúng Dình chăm chú đọc thư, bộ mặt đang hầm hầm, bỗng tươi tỉnh hẳn lên. Hắn reo to:
– A, thư của Mã lão tướng! Vạn phúc, vạn phúc cho ta! Ta đang mong thư lão tướng như ruộng hạn mong mưa!

Dình tự tay cởi trói cho người lạ mặt, xin tha lỗi rồi ân cần hỏi:

– Xin ngài cho biết quý danh?

Người lạ mặt thưa:

– Thưa ngài, tôi là Dình Sé Chảo, gia nhân của Mã lão tướng.

Chúng Dình quát phỉ mang rượu, thịt vào. Dình cùng Chảo uống rượu. Trong lúc dùng tiệc, Dình hỏi:

– Làm sao mà ngài lọt được vào đây?

Chảo khiêm tốn thưa:

– Dạ, có gì đâu, tôi phải xếp một chồng quần áo tả-pú, một ít thuốc phiện, địu đi như người buôn lậu. Tôi cố gắng len lỏi tìm đến nơi ngài, nhưng ngài ở bí mật quá, không làm sao vào được. Quân canh gác của ngài dầy đặc. Một buổi tôi mon men về phía hang này. Đang đi, bỗng chân vấp vào một sợi dây. Ngay lúc đó nghe một tiếng nổ, tôi không biết là bị vấp phải mìn hay là súng kíp quân ngài chôn. May là tôi chỉ bị thương nhẹ – Chảo chỉ xuống một vết thương ở gót chân – Thế rồi, quân ngài ập đến trói tôi và toan giết. Tôi phải nói mãi họ mới cho vào gặp ngài. Trời, hút chết, có lẽ tôi có quý nhân phù trợ, chứ không thì chẳng còn được trông thấy ngài. Ngài sợ Cộng sản tấn công hay sao mà canh gác nghiêm ngặt như thế?

Dình cười:

– Bọn Cộng sản ghê gớm lắm. Đặc công của chúng lợi hại lắm! Không làm thế ta bị bắt lúc nào không biết!

Nói rồi, Dình cười tự đắc.

Dình tập họp các tướng phỉ vui vẻ nói:

– Mã lão tướng gửi mật thư cho biết: Cụ Hoàng từ Hà Nội báo tin, cụ đã điện vào trong Nam. Ngô Đình Diệm đánh điện ra báo: sẽ cử một ngài đại diện cao cấp ra giúp chúng ta. Lão tướng dặn ta phải án binh bất động. Tất cả các tướng phải về ngay nơi hùng cứ của mình, chiêu thêm binh mã, chờ ngày khởi sự.

Lão tướng căn dặn, khi nào vị đại diện cao cấp trong Nam đáp máy bay ra, ngài sẽ phái Mã tráng sĩ dẫn đến ngay. Ta cần phải đón tiếp thật long trọng.

– Hay, hay quá! Dình gật gù:
– Thời cơ đã đến, thời cơ đã đến! Thảo nào tôi xin quẻ, Thần thánh báo ứng ngay.

Hắn quay sang Sé Chảo:

– Nhờ ngài về nói với Mã lão tướng và Mã tráng sĩ là tôi sẵn sàng thực hiện những lời căn dặn của ngài, chuẩn bị đón vị đại diện tối cao!

*

Công việc chuẩn bị đưa Nghĩa vào hang được tiến hành gấp rút, tỉ mỉ.

Một điều rất may mắn là trước kia Nghĩa đã từng ở Sài Gòn. Nhưng đó là thời Pháp thuộc, ngày nay đã biến đổi nhiều, anh vẫn phải tìm hiểu kỹ về phong tục, kinh tế miền Nam và Sài Gòn hiện nay.

Tất cả các mẫu áo của biệt kích, quân đội, dân thường Sài Gòn được phác họa, chọn lấy một kiểu thích hợp. Một chiếc huy hiệu nhỏ, một huân chương “Anh dũng bội tinh” đệ nhất hạng được khâu vào trong ngực áo. Những hộp thuốc lá thơm đắt tiền: Sa-lem, 555, Cô-táp…; một bức thư của “Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa” gửi “Tổng tư lệnh quân đội giải phóng Đồng Văn tự trị”, tấm bản đồ Hà Giang in bằng tiếng Anh, chiếc địa bàn nhãn hiệu Mỹ, chiếc nhẫn nạm kim cương, chiếc can gấp… Nghĩa là tất cả những trang bị của một tên chỉ huy cấp tướng ngụy.

Sau mấy ngày chuẩn bị, mọi việc đã xong xuôi.

Sé Chảo về báo với Minh, Vàng Chúng Dình đã sẵn sàng chờ người đại diện. Nghĩa lên đường vào một buổi chiều.
Anh Thảo đi bên Nghĩa, lặng lẽ, suy tư, vầng trán hằn lên những vết nhăn.

Thế là từ ngày mai, Nghĩa bước vào một cuộc chiến đấu độc lập căng thẳng, nguy hiểm. Ở đây, chỉ một sơ xuất nhỏ là anh sẽ bị chúng hành hình. Biết nói gì với người chiến sĩ trinh sát, người bạn chiến đấu bao năm và là người thân như anh em ruột thịt?

Vào đó, Nghĩa xa đồng đội, đơn thương độc mã, gánh tất cả khó khăn. Hàng ngày nhìn tội ác kẻ thù, lòng quặn đau mà mặt vẫn phải tỏ ra tươi vui. Trong bụng sục sôi căm thù mà ngoài miệng cứ phải ca ngợi, tâng bốc chúng. Chiến công thì ít người biết mà thất bại thì bao điều xấu lan truyền xa.

Đây là lần tạm biệt hay vĩnh biệt? Đây có phải là lần gặp gỡ cuối cùng?
Anh sống về thì chẳng ai biết đến tên anh. Còn anh bị chết, ngoài một vài đồng đội ra, mọi người coi anh như một tên phản động, gián điệp…

Đã đến chỗ chia tay, anh Thảo nắm lấy tay Nghĩa, xiết chặt:

– Cậu có dặn gì không?

Nghĩa suy nghĩ một thoáng rồi nói:

– Không anh ạ!

Anh hỏi thêm:

– Có dặn gì cô ấy ở nhà không?

Nghĩa chợt nhớ ra:

– Anh nói với anh em là giữ kín đừng để cô ấy biết tôi đi làm nhiệm vụ này, để cô ấy khỏi lo. Còn nếu tôi có sao, anh lo giúp chuyện gia đình hộ tôi.

Nói rồi Nghĩa quay gót bước đi. Anh Thảo nhìn theo bóng Nghĩa cho đến khi khuất vào lùm cây rậm rạp.

*

Tiếng máy bay ầm ĩ. Trong ánh nhập nhờ của sao đêm, tinh mắt lắm người ta mới thấy một chiếc máy bay lượn đi lượn lại trên khu rừng vắng.

Một lúc sau, máy bay sà xuống cánh rừng, nơi có một đống lửa cháy rực báo hiệu, rồi bay vút đi, trả lại sự yên tĩnh cho rừng đêm.

Rạng sáng hôm sau, giữa rừng sâu, một người lạ mặt cuộn tấm dù xanh, lốm đốm vết loang lổ, vùi kín vào một hốc đá.

Xong đâu đó, người lạ mở địa bàn ra xem, xác định phương hướng, đặt tấm bản đồ trước mặt, xem xét một hồi rồi xốc ba lô, vạch cây đi ra.

Người lạ có thân hình to lớn, mặt vuông chữ điền, đầu đội mũ lông da thú, mình mặc bộ quần áo đen, bên ngoài khoác chiếc áo da, chân đi ghệt, vai mang máy phô-ni, điện đài. Tay đeo một chiếc nhẫn nạm kim cương xanh biếc, một đồng hồ biệt kích to, tay chống chiếc can gấp bằng đuy- ra sáng loáng. Một ba lô to trĩu trên vai với đầy đủ thức ăn: cơm hấp, cá, thịt hộp, cà phê, kẹo, muối…

Đó là Trần Tấn Nghĩa.

Nghĩa vạch lá tìm đường. Gần cửa rừng có hai người đứng đón anh. Một người có thân hình cao, mặt dài, mũi khoằm như mỏ diều hâu, mắt tròn lồi, môi mỏng và đỏ, lông mày xếch, mình khoác một chiếc áo dạ. Một người mặt dài, mắt xếch, tóc xoăn chạy ngược ra phía sau, miệng lúc nào cũng cười cười. Người đó quấn một chiếc khăn che lấp vầng trán cao. Đó là Mã Chính Minh và Mã Chính Lâm.

Ba người gặp nhau. Minh, Lâm vác hộ tất cả những đồ đạc, ba lô trên người Nghĩa rồi cùng nhau đi về phía hang Chà Mần.

Sau khi tiễn các tướng phỉ và em trở về, Vàng Chúng Dình ngày đêm thấp thỏm chờ vị đặc phái viên của Mỹ – Diệm.

Đêm ấy, nghe tiếng máy bay ì ì trên khu rừng vắng, hắn cho phỉ trèo lên đỉnh núi cao quan sát. Phỉ thấy có đống lửa cháy ở giữa cánh rừng. Máy bay lượn rồi sà thấp xuống. Một vật đen rơi từ trên máy bay xuống gần đống lửa. Một tên vội từ trên trạm quan sát chạy về báo với Dình:

– Thưa Tổng tư lệnh, có máy bay thả người xuống!

Chúng Dình cử ngay một toán phỉ tiến sâu vào rừng, vây quanh đống lửa, xem động tĩnh. Thế là hành động của ba người đều nhất nhất lọt vào con mắt theo dõi của bọn phỉ. Toán phỉ vui mừng về báo ngay cho Dình. Dình lệnh cho phỉ đón ba người về.

Biết là phái đoàn đã đến, Dình thân chinh ra cửa hang. Hai hàng phỉ lưỡi lê tuốt trần, súng lăm lăm trong tay. Trông thấy Minh dẫn một người oai vệ bước đến, Dình cúi chào cung kính:

– Kính chào các ngài! – Hắn quay sang Minh – Lâu lắm mới gặp tráng sĩ. Thật là vạn hạnh! Ba người đi giữa hai hàng phỉ, vào “đại bản doanh”.
Tên phỉ nào cũng đi giầy một bên chân, quấn vải lòa xòa, tóc trùm kín tai, lăng xăng trở đi trở lại.

Dình quát:

– Lấy nước nóng để các đại quan rửa mặt! Lấy mật gấu để các đại quan bóp chân!

– Dạ!

Tiếng phỉ dạ ran.

Sau khi rửa chân xong, trở vào hang, ngồi trên tảng đá da hổ, Minh trịnh trọng giới thiệu:

– Đây là ngài trung tướng họ Trương, đặc phái viên của đại quốc Mỹ và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngài đáp máy bay từ Sài Gòn ra đêm qua. Tôi được lệnh của cha tôi đi đón ngài về đây. Ngài sẽ ở lại làm tham mưu, vạch kế hoạch cho chúng ta quét sạch bọn địch, đem lại tự do sung sướng cho người Mèo. Ngài biết tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng không biết tiếng Mèo, tiếng Hán, vì thế – Minh quay sang Lâm – đây là người thông ngôn cho ngài.

Vàng Tổng tư lệnh xiết chặt tay Trương tham mưu, tỏ vẻ cảm động, phấn khởi nhưng vẫn còn phảng phất nghi ngờ.

Trương tham mưu nhìn xung quanh một lượt, cất cao giọng:

– Thưa ngài Tổng tư lệnh cùng các chiến hữu! Vừa qua các chiến hữu có nghe đài Sài Gòn không? Tôi xin báo một tin quan trọng: Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trực tiếp lên đài chúc mừng

cuộc khởi nghĩa, hoan nghênh tinh thần chiến đấu của các chiến hữu. Đồng thời ngài cũng chia buồn cùng các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Tôi còn nhớ, mở đầu Tổng thống nói: “Hỡi các chiến sĩ giải phóng Đồng Văn, tôi vô cùng vui mừng khi nghe tin về cuộc khởi nghĩa của các chiến sĩ. Tôi hy vọng các chiến sĩ sẽ thành công, giải phóng cho dân tộc mình khỏi sự xâm lăng, thống trị của kẻ thù. Tôi cũng đau đớn chia buồn cùng các chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, đem xương máu của mình tưới đỏ mảnh đất quê hương…” Tổng thống luôn theo dõi từng giờ từng phút cuộc chiến đấu của các chiến hữu như thế đó!

Tôi đến đây cùng các chiến hữu quyết tâm chiến đấu tiêu diệt kẻ thù chung, giải phóng quê hương khỏi sự tàn phá, kìm kẹp của kẻ thù, cứu nhân dân khỏi sự đau thương tang tóc.

Các chiến hữu thân ái! Chúng ta hãy hiệp lực cùng nhau, quyết tâm tiêu diệt đến cùng, không để cho kẻ thù của chúng ta kịp trở tay, không để một bóng kẻ thù trên đất Đồng Văn, giành đất Đồng Văn này về cho dân tộc ta. Tự do, tự do muôn năm!

Tiếng hò reo vang lên. Trương tham mưu ngày càng hùng hồn:

– Thời cơ đã đến, các cường quốc sẽ giúp đỡ chúng ta, tiếp viện quân đội và vũ khí cho chúng ta. Nhất định chúng ta sẽ thắng. Đại thắng!

Được những lời hùng hồn của Trương tham mưu khích lệ. Vàng Chúng Dình và bộ hạ phấn chấn hẳn lên. Dình cứ tiếc là đã phái các tướng về các nơi, không ở đây nghe những lời huấn thị cao siêu của Trương tham mưu. Dình định sẽ mời Trương tham mưu đi đến từng nơi động viên các tướng lĩnh, quân sĩ của hắn.

Những bàn đèn dã chiến được bày ra mời Nghĩa, Minh, Lâm hút thuốc phiện.

Ba người nằm xuống bên bàn đèn. Minh, Lâm rít hết điếu này đến điếu khác. Nghĩa không nghiện, giờ làm sao đây? Không hút, chúng coi khinh, cho là chưa phải tay giang hồ, sẽ nghi ngờ, mà hút thì trái với sinh hoạt của anh.

Được, cứ hút xem sao. Nghĩ rồi, Nghĩa cầm dọc tẩu, rít liền mấy hơi. Đầu dọc tẩu khai như nước đái quỷ làm anh nôn nôn khó chịu. Anh cứ cố nín, mặt tỉnh khô, rít lấy rít để như là dân “làng bẹp” thực thụ. Cũng may mà thần kinh của anh khỏe nên không bị chìm trong cõi đê mê.

Trong khi đó Minh thì thầm với Dình:

– Ngài và chúng ta đều có kẻ thù chung.

Ngài rất căm thù chúng. Quê ngài ở Bùi Chu. Sau cách mạng kẻ thù đã giết cha ngài, đuổi mẹ con ra khỏi nhà sống cầu bơ cầu bất. Sau Giơ-ne-vơ, ngài di cư vào Nam theo Ngô tổng thống, mong có ngày lấp sông Bến Hải, trở về giải phóng quê hương, trả thù cho cha. Nay ngài về đây cùng chúng ta chiến đấu giải phóng Đồng Văn…

Nửa đêm, Nghĩa nằm vờ ngủ. Dình vội nhổm dậy, khẽ báo hiệu gọi Mã Chính Minh ra ngoài cửa hang, đến một chỗ vắng bàn bạc.

Ngồi xuống một phiến đá, kéo chiếc áo lông thú che kín cổ, bật diêm hút thuốc, Dình thì thầm:
– Thưa tráng sĩ, tôi hỏi thế này không phải tôi không tin tráng sĩ, mong tráng sĩ tha thứ… Minh chột dạ, hay là nó nghi ngờ Nghĩa rồi đây? Nếu thế thì hỏng hết mọi chuyện. Ba người
khó bề thoát khỏi bàn tay chúng. Nhưng vốn dày dạn trường đời, Minh thản nhiên như không:

– Ngài định hỏi điều gì? Ngài cứ hỏi, cùng đội ngũ chiến đấu, ngài cứ tự nhiên. Dình lặng im, suy nghĩ thêm hồi lâu, rồi mới nói:
– Đáng lẽ tôi không nên hỏi, nhưng, ngài tha lỗi. Tôi muốn hỏi ngài, tên thông ngôn kia…

– Sao? – Minh hỏi một cách chậm rãi – ngài dạy sao?

– Dạ, ngài dạy quá lời, tôi muốn hỏi, ngài có hiểu rõ lai lịch tên thông ngôn không ạ?

Câu hỏi thật bất ngờ đối với Minh. Tưởng hắn hỏi về Nghĩa, ai ngờ hắn lại nghi ngờ Lâm. Điều này làm cho Minh lo lắm. Từ hôm sang Đồng Văn đến giờ, mỗi khi tiếp xúc với Văn, Minh, Dình biết Văn có người con trai thứ hai là Mã Chính Lâm, nhưng Dình chưa gặp mặt Lâm bao giờ. Vừa qua không tìm được người phiên dịch thích hợp. Minh xin cho em cùng đi. Minh đã tính trước, nếu chẳng may gặp bọn tướng phỉ quen Lâm ở đó, thì Minh sẽ nói là mình đã thuyết phục được Lâm trở về với cha, về đây hợp lực với Dình. Khi vào hang, không có những tên quen Lâm, Minh giới thiệu Lâm là thông ngôn. Giờ hắn nghi ngờ làm thế nào đây?

Sau một thoáng suy nghĩ, Minh nhận ngay ra rằng, Dình chỉ nghi ngờ vu vơ thế thôi, nếu như biết đây là Lâm thì hắn đã không hỏi Minh như thế, hoặc hắn đã cho tướng phỉ về nhận diện rồi.

Minh vẫn rít thuốc, chưa trả lời. Thấy Minh im lặng, hắn nói luôn:

– Thưa tráng sĩ, “cẩn tắc vô ưu”, theo tôi, việc quân là việc nghiêm mật, nếu như tráng sĩ chưa biết rõ lai lịch, chưa thấy chắc chắn, thì ta có thể khử tên này đi để trừ hậu họa. Tráng sĩ thấy thế nào?

Minh lo lắng tột độ, nhưng vẫn giữ bình tĩnh, cười khà sau hơi thuốc:

– Chả lẽ ngài không tin cha con tôi sao? Đây chính là người của cha tôi, trước kia tên này đã từng theo ông Hầu Vạn Quả sang nước các ngài, phiên dịch cho bà Mỹ Thuận. Tôi cũng đã từng biết hắn. Vừa qua, hắn là một trong những tên đáng tin cậy nhất trong cuộc chiến đấu của chúng ta.

– Thế sao tôi chưa từng gặp hắn?

– Dạ, thưa ngài, từ hôm ngài sang đến giờ, chắc ngài đã rõ, khi yết kiến ngài, chúng tôi toàn chọn những tướng lĩnh, những vị chỉ huy, chứ còn một tên thông ngôn quèn làm sao có thể để gặp

ngài? Còn nếu như ngài không tin chúng tôi – Minh nhấn mạnh tiếng “chúng” – thì xin ngài cứ áp dụng những biện pháp cần thiết, đó là quyền của ngài.

Nghe giọng nói đầy tự ái của Minh, Dình thấy mình đã đi quá xa, hoàn toàn không có lợi cho hắn. Dình vội vàng xin lỗi và hạ giọng:

– Đây là tôi muốn cùng bàn bạc với ngài, vì công việc chung của chúng ta. Chứ có phải tôi không tin ngài đâu?

– Có điều chúng tôi luôn nghĩ rằng tính mệnh của ngài gắn liền với tính mệnh của chúng tôi. Giả như chúng tôi bị một tên gian phi lừa, thì trước khi ngài bị ám hại, chúng tôi đã bị lên đoạn đầu đài rồi!
– Tôi biết, tôi biết – Dình ngắt lời Minh rồi cười xòa, dắt tay Minh đứng lên đi vào trong hang. Nằm trên chiếc nệm xếp bằng những tấm chăn cướp của mậu dịch, bên cạnh là đống lửa sưởi,
ấm nhưng Minh vẫn còn bàng hoàng, không sao ngủ được. Thật là hú hồn, nếu như nó cứ lẳng lặng cho gọi một số tên tướng phỉ về thì nguy. Nó nói ra, ta biết cách đối phó, thật là may.

Mấy hôm sau Dình cũng chưa bàn đến chuyện quân lực vội, dường như hắn còn dò xem tài năng và quá khứ của ngài trung tướng này ra sao, cuộc đời có từng trải không? Thiếu gì những kẻ mang danh này danh nọ, nhưng không có thực tài.

Dình hỏi tình hình Sài Gòn, Nghĩa nói:

– Sài Gòn có nhiều khách sạn chọc trời. Ở trong đó sung sướng lắm. Tha hồ ăn chơi thỏa thích. Nơi nào cũng có hộp đêm, tiệm nhảy… Đủ các loại rượu mạnh: He-ne-si, “Na-pô-lê-ông”, các món ăn Âu, Á…

– Ngài chắc đã qua nhiều nước Âu Mỹ? Các nước đó sống xa hoa lắm phải không?

– Chà, một lần tôi dẫn đầu phái đoàn quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sang thăm Hoa Kỳ. Khi đi qua hải cảng Niu oóc, chúng tôi đã ném những đồng tiền vàng xuống nước, để các cô gái cởi hết quần áo – đây là điều bắt buộc, người ta chỉ cho các cô lội xuống khi trên người không còn một mảnh vải – nhẩy xuống nước, mò những đồng tiền vàng.

– Thích quá! – Dình nắc nỏm khen.

– Còn chuyện gái à, các ngài có biết thế nào không? Hồi còn là sĩ quan hải quân, tôi cùng các sĩ quan khác lên nước Anh. Khi lên bờ, ngồi trên một chiếc xe ngựa, đằng sau xe buộc chiếc mỏ neo. Ngựa kéo xe đi, khi nào neo cắm xuống mặt đường, không kéo được nữa, thì sà vào hộp đêm gần nhất bên đường. Thế là tha hồ đập phá.

Ở Sài Gòn cũng không kém, khối mặt còn hơn nhiều! Nhất là gái. Vàng Chúng Dình như sực nhớ ra, liền thưa ngay:

– Thưa tiên sinh, chúng tôi xin bắt những con bé người Hoa, người Mèo xinh đẹp để hầu tiên sinh. Chưa bao giờ tiên sinh hưởng…

Nói rồi Dình quát gọi một tên phỉ vào. Tên phỉ khúm núm đứng trước mặt Dình:

– Con có mặt!

Dình ra lệnh:

– Mày cho quân đi vào các xóm, bắt cho ta một con bé Mèo non xinh đẹp, mang về đây, nghe chưa?

Tên phỉ dạ ran, rồi lui ra.

Nghĩa giật mình. Lại một cô gái không tránh khỏi sự xâu xé tàn bạo của bọn này. Làm thế nào đây? Từ chối thì, chỉ có là Cộng sản mới đạo đức như thế.

Gần tối, bỗng một tiếng thưa làm anh giật mình:

– Thưa Tổng tư lệnh, con đã bắt được một con Mèo rất trẻ hầu quý khách!

Trương tham mưu ngắm cô bé trạc 16, 17 tuổi, da trắng hồng, đang mếu máo khóc. Ngài hỏi cô bé hồi lâu rồi nói:

– Xin ngài thả nó về, khi nào cần sẽ gọi, đừng cho đứa nào đụng đến nó. Thưa ngài Tổng tư lệnh, nó sợ hãi quá rồi. Hơn nữa bây giờ tôi muốn giành tâm trí chiến đấu với kẻ thù không đội trời chung của ta. Vài tháng nữa, giải phóng Đồng Văn rồi, ta hưởng lạc cũng chưa muộn phải không ngài?

– Dạ, ngài dạy chí phải.

Trương tham mưu bàn sang chuyện khác. Ngài bỗng nhìn lên nóc hang, qua làn khói thuốc phiện mờ ảo:

– Chiến thắng xong, tôi đề nghị ta xây ngôi đền thật lớn tưởng nhớ các chiến sĩ đã hy sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng Đồng Văn.

Nghe nhắc đến các chiến sĩ đã hy sinh, Dình bỗng lặng đi, buồn rầu nói:

– Tôi đã sáng tác xong bài “Hồn sĩ tử” để ca ngợi, nhớ tiếc các chiến sĩ đó, xin hát để ngài nghe, ngài bổ sung cho.

Trương tham mưu quay sang nhìn Dình, khen:

– Tôi không ngờ ngài vừa là nhà chỉ huy quân sự tài ba, lại vừa là một nghệ sĩ.

– Ngài quá khen!

Dình cất giọng hát trầm, buồn thảm với niềm xúc cảm thực sự. Nghĩa thật không ngờ, “lý tưởng” chống Cộng không phải chỉ là lý trí trong óc mà đã trở thành tình cảm trong tim hắn. Hắn sang đây, không phải đơn thuần vì tiền, mà trước hết vì mối thù giai cấp. Ý thức phản động đã thành máu thịt trong người hắn.

Hôm sau, Minh và Nghĩa lấy cớ đi xem địa thế, đến chỗ vắng, bàn bạc. Minh nói:

– Hắn có vẻ nghi ngờ thằng Lâm. Ta phải thay thế ngay thôi, nếu không chúng cho tên tướng phỉ nào đó về nhận diện, rất nguy hiểm. Anh ở lại, tôi sẽ phái người thông ngôn khác. Vả lại, thằng Lâm phải về chỉ huy dân quân bao vây mặt ngoài, nó không thể ở lâu trong hang được.

– Đúng rồi, anh về báo cáo với anh Thảo hộ tôi. Và sau này, anh sẽ là người liên lạc giữa tôi và anh Thảo, không thể để người khác được.

Ba hôm sau, Minh nói với Dình là cần cho người thông ngôn về để Văn xác minh kỹ thêm rồi mới đưa vào. Minh cùng Lâm ra khỏi hang.

Dình ra tận cửa rừng tiễn chân Minh, lòng bùi ngùi:

– Theo thiển kiến của tôi, thật chỉ có họ Mã mới thay được họ Hoàng chỉ huy chúng tôi, mới có thể đảm đương được những công việc đại nghĩa. Tráng sĩ đi rồi, lòng tôi mong nhớ. Tráng sĩ nói với Lão tướng rằng, tôi xin thề, trên có trời xanh, dưới có núi đá, nếu tôi không cùng các ngài tiêu diệt hết cộng sản ở cái đất Đồng Văn này, tôi không quay lại quê hương nữa. Tôi chiến đấu với Cộng sản đến cùng. Tôi coi Cộng sản Việt Nam cũng như Cộng sản Trung Hoa!

Nói rồi, hắn chia tay hai người, lòng lưu luyến.

Trong khi đó, Nghĩa đi quanh hang, xem các ngóc ngách, cửa ra vào. Anh gặp những tên phỉ đầu tóc bù xù, rũ rượi, ăn mặc rách rưới, bẩn thỉu như quỷ đói, cười nói man rợ.

Đang ở Hà Nội và Thái Nguyên, nơi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc sống mới tươi vui, hối hả; đùng một cái, lên mảnh đất xa lạ, với những tên phỉ sống dã man như thời trung cổ, giết người để rán mỡ, ăn gan, cười nói man rợ, thích thú, anh cứ tưởng như đến thế giới khác. Anh xót xa khi bóng tối của cuộc sống cũ còn trùm lên con người ở đây. Phải làm gì để góp phần đẩy lùi cuộc sống lạc hậu, tăm tối này?

*

Mấy hôm sau, Minh tạm cử người phiên dịch khác vào. Tuy nhiên, những cuộc họp bàn quan trọng, Minh phiên dịch cho Nghĩa luôn.

Sau một thời gian tiếp xúc, Dình tin Nghĩa hoàn toàn, hắn bắt đầu bàn đến những việc hệ trọng.

Vàng Chúng Dình kể về trận giao chiến vừa qua, cách bố trí quân, kế hoạch, mục tiêu tấn công. Hắn cố nói hết dũng khí của quân mình. Hắn giải thích nguyên nhân chưa thành công – hắn không nói là thất bại – là do địch quân quá mạnh, để cố thanh minh cho mình.

Trương tham mưu trầm tĩnh phân tích:

– Lần trước chúng ta chưa toàn thắng, theo tôi, vì chúng ta làm hấp tấp, chưa chuẩn bị lực lượng kỹ càng. Quân lính ta lại hung hăng, tàn ác quá. Quân ta đi đến đâu, giết người cướp của, mổ bụng moi gan đến đó, không được lòng dân. Thưa ngài, có phải thế không?

– Tiên sinh dạy phải lắm!

– Chúng ta thiếu thốn vũ khí, lương thực. Súng ống nhiều nhưng thiếu trọng pháo, súng máy. Ta toàn giáp 5, giáp 3, trung chính, vì thế không phát huy hỏa lực được!

– Tiên sinh dạy lắm phải!

– Quân, tướng chưa đồng tâm, có người một lòng một dạ với ta, nhưng cũng có kẻ lừng chừng, nhút nhát. Kế hoạch chưa thống nhất. Đã nổi lên là phải nổi một ngày, địch quân trở tay không kịp. Một tiếng vỗ tay không to, nhiều tiếng vỗ tay mới to!

– Tiên sinh dạy phải lắm!

Dình gật gù khen rồi thành thật hỏi:

– Bây giờ tiên sinh dạy kế hoạch mới thế nào?

Trương tham mưu khoát tay:

– Ta đã tìm ra nguyên nhân thất bại rồi, giờ ta phải khắc phục những khuyết điểm đó. Trước hết ta phải dựa vào dân, quân lính đi đâu không được giết người cướp của, phải mua chuộc nhân tâm. Chúng ta chỉ có vài ba nghìn tay súng chứ gì. Chờ hàng vạn người Mèo cùng nổi dậy như ta, địch quân có chạy đằng trời. Phải đồng tâm nhất trí đánh đến cùng. Tôi không hợp lực với ngài chỉ huy đánh thắng trận này, tôi không về Nam nữa!

Sau đó Trương tham mưu vạch kế hoạch cụ thể, đánh những đâu, tấn công như thế nào, nghi binh ra sao…

Dình vỗ đùi reo lên:

– Nếu như tiên sinh đến sớm, giờ đây chúng tôi đánh đến Hà Nội rồi!

– Ngài quá khen. Thắng lợi còn là ở số trời. Ngày mai ngài có thể cho tôi xem lại binh lực, các vị chỉ huy, số quân, nơi bố trí quân, để chúng ta còn tìm kế định liệu, được không?

– Dạ, tôi xin sẵn sàng.

Đêm ấy, Trương tham mưu cùng Vàng tổng tư lệnh bàn luận đến khuya mới đi ngủ. Sáng hôm sau, Dình vào một ngách hang, lấy ra một tấm bản đồ vẽ trên một tờ giấy trắng, trải trên mặt tấm da hổ vừa chỉ tay vừa nói:

– Đây, đây là chỗ chúng tôi tụ quân, trước kia chúng tôi đóng gần nhau, nhưng bọn quân Cộng sản đánh mạnh quá, chúng tôi phải tản ra để bảo tồn lực lượng.

Tôi ở chỗ này, trung tâm giữa các cánh quân. Vàng Chỉn Cáo ở vùng Bát Đại Sơn.
Lý Nhè Lùng ở Sơn Vĩ. Vàng Vạn Ly ở Vần Chải. Giàng Sè Páo ở Phú Lúng…
Ngoài ra, bọn Giàng Mí Thùng, Lồ Sinh Ly, Vàng Dúng Mỉ ở vùng Lũng Chinh, Mèo Vạc.
Bọn Giàng Dúng Cáng và một số bộ hạ của Giàng Vạn Sùng ở Lũng Cú…

Binh lực chúng ta còn mạnh. Vũ khí tuy bị mất nhiều, nhưng vẫn đủ. Kho vũ khí Thào Sè Na còn giữ. Tuy thế, muốn thắng Cộng sản cho nhanh, tôi đề nghị Trương tiên sinh đánh điện vào Nam xin thêm viện binh và vũ khí, nhất là đại bác và liên thanh.

Trương tham mưu gật đầu:

– Được, tôi sẽ đánh điện vào Nam. Nước Mỹ sẽ tiếp viện cho ngài những quân lính tinh nhuệ, vũ khí tối tân. Ngài cần bao nhiêu?

Vàng Chúng Dình lấy mảnh giấy ghi đi xóa lại số lượng súng đạn, quân lính, rồi đưa bản danh sách đó cho Trương tham mưu. Hắn dặn đi dặn lại:

– Ngài cố xin, nhất là đại bác, chúng tôi đánh 11 ngày trời mà không chiếm được phố Đồng Văn cũng là do thiếu đại bác!

Việc xin vũ khí tạm ổn. Hai vị lại bàn về người chỉ huy các mũi tấn công.

Tổng tư lệnh giở tấm bản đồ, xem đi xem lại, lấy bút chì đỏ vẽ những mũi tên định hướng tấn công rồi nói:

– Lần này, nếu có tấn công, tôi định sẽ tấn công Phó Bảng trước. Ở đấy, dân quân tập trung nhiều. Ta sẽ cho chân tay trà trộn vào đám dân quân, trong đó có những tay thân tín nhất của ta. Chuyện này Sùng Vạn Lù, Thào Sè Na, Mã Chính Minh làm được. Nửa đêm ta sẽ tấn công. Trong đánh ra, ngoài đánh vào, ta lấy Phó Bảng như trở bàn tay, địch quân có tài thánh cũng không đối phó kịp. Chiếm được thủ phủ của địch quân ở Đồng Văn này rồi thì các nơi khác không đánh cũng tan. Ta thừa thắng tràn đi, như thế thì chẳng mấy lúc mà ta chiếm được cả Đồng Văn.

– Thật là hay!

Trong khi chờ ngày xuất quân, Vàng Chúng Dình cho phỉ luyện tập ngày đêm. Hắn thảo nhật lệnh, diễn văn để đọc trước ba quân; viết thư sang Vân Nam giục em là Vàng Mí Va chiêu mộ thêm binh sĩ. Hắn còn phác ra các ghế trong “nội các”, hí hửng mừng thầm nói với Trương tham mưu:

– Chiến thắng xong, chúng tôi thành lập “Liên bang Mẹo” gồm người Mèo nước Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Cao Miên, Lào, Cụ Hoàng sẽ làm Chủ tịch liên bang. Chúng tôi không quên ơn ngài.

Hai tuần trăng sau, Dình vui vẻ báo tin:

– Thưa tiên sinh, đội quân do em tôi là Vàng Mí Va chỉ huy đã sang, túc trực ngoài cửa rừng chờ lệnh hợp quân cùng quân đội Đồng Văn, khởi sự. Về phía ta, mấy tuần trăng rồi, quân sĩ không được đánh lớn, chân tay buồn bực, tinh thần trễ nải, đã có hiện tượng đi quấy phá dân chúng. Giờ tôi muốn sớm tấn công, để khích lệ chí khí quân sĩ, để bọn Cộng sản thấy thế chẻ tre của ta, dân chúng phấn khởi ra sức ủng hộ chúng ta. Mong Trương tham mưu ban ý.

Trương tham mưu thấy lo lắng nhưng tỏ ra phấn khởi nói cứng:

– Thế thì hay quá rồi, làm người chỉ huy ai chả muốn xông ra giữa trận tiền, vung gươm trên mình ngựa, chứ ai muốn nằm bẹp trong nhà, nấp sau váy vợ? Tôi thấy vui mừng lắm. Bao công sức bỏ ra, chỉ chờ đến ngày khởi công. Nhưng, xuất quân trận đầu là phải giành thắng lợi. Muốn biết thắng hay không phải xem ý Trời.

– Làm thế nào tiên sinh? – Dình lo lắng hỏi.

Nhắp thêm mấy chén rượu, Trương tham mưu trầm ngâm:

– Muốn biết ý Trời, chỉ có cách xem quẻ. Trời sẽ báo ứng cho ta. Ta xem một quẻ xem sao? Ngài nghĩ thế nào?

– Tiên sinh dạy phải lắm?

Nói rồi Chúng Dình chạy đến bên bàn thờ, nâng ống thẻ bằng thủy tinh, quỳ xuống toan xóc. Trương tham mưu chột dạ. Nếu để nó chọn được quẻ tốt thì nguy, liền can:
– Ngài hãy để tôi xin âm dương. Xin âm dương hiệu nghiệm hơn.

Dình đồng tình. Trương tham mưu lấy một chiếc đĩa sành, móc túi lấy hai đồng tiền đã chuẩn bị từ trước. Ngài thắp hương, quỳ xuống, nâng đĩa ngang mặt, khấn bái rồi thả đồng tiền rơi xuống mặt đĩa.

Hai đồng tiền rơi xoẻng trên mặt đĩa.

Trương tham mưu hồi hộp. Bỗng dưng, mặt biến sắc, ngài hốt hoảng nói:

– Hỏng rồi, điềm gở rồi. Trời chưa cho ta tấn công ngay rồi. Ngài phải cho hoãn binh ngay, hoãn binh ngay. Trời đã không cho thì ta có dùng binh hùng tướng mạnh đến mấy cũng không thể thành công.

Vàng Chúng Dình buồn rầu, đành cho các cánh quân án binh bất động. Trương tham mưu bàn thêm:
– Bây giờ ta phải chờ thời cơ, chờ ngày Trời cho dấy binh. Nếu ta để quân sĩ tập trung đông thì miệng ăn núi lở, đến lúc tấn công, lương thực sẽ hết; quân sĩ chờ đợi lâu, “nhàn cư vi bất thiện”, sinh kiêu, vào bản làng quấy phá, mất lòng dân, như thế ta tự làm yếu ta vậy. Địch quân cho máy bay lên bỏ bom thì chết sạch.

Vàng Chúng Dình càng lo lắng:

– Theo tiên sinh, giờ có phương kế gì cứu chữa không?

Giờ phải chia bớt chúng thành các cánh quân, cày bừa làm ăn, đêm ngày trà trộn vào dân thường, vừa nắm được tình hình địch, không bị bao vây, vừa có kế sinh nhai. Chỉ vài tuần trăng là tập hợp, tấn công thôi.

Dình khen phải, thực hiện lời dạy của Trương tham mưu ngay.

© Đạo Sĩ Chăn Gà

😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍

Cuộc chiến đấu bảo vệ Đồng Văn