Thật thú vị khi được chứng kiến chính quyền Hoa Kỳ, được dẫn dắt bởi chủ nhân giải Nobel, đã hiếu chiến như thế nào trong việc xử lý cuộc khủng hoảng Ukraina. Cuộc khủng hoảng được cho là bắt đầu khi chính phủ Yanukovich từ chối chương trình cứu trợ của EU để tiếp nhận chương trình của Nga. Truyền thông chính thống (MSM) dường như đã không chỉ bỏ qua sự thật là đề xuất của EU kém hào phóng hơn Nga, mà còn ở chỗ kế hoạch của Nga không ngăn chặn các thỏa thuận tiếp theo với EU, trong khi kế hoạch của EU đòi hỏi phải ngừng các thỏa thuận tiếp theo với Nga. Cũng như thỏa thuận với Nga không có ràng buộc quân sự, trong khi EU yêu cầu Ukraina phải liên kết với NATO. Khi MSM tường thuật về các gói cứu trợ, họ không chỉ bỏ qua sự ngăn cản và tính chất quân sự trong đề xuất của EU, họ có khuynh hướng coi các thỏa thuận của Nga là thủ đoạn kinh tế kém đứng đắn, như “cái dùi cui”, còn đề xuất của EU là “xây dựng và có lý” (Xã luận, NYT, 20.11.2014). Tiêu chuẩn kép dường như đã được nội tại hóa hoàn toàn trong phạm vi hoạt động của Hoa Kỳ. Những người biểu tình xuất hiện chắc chắn là do sự bất bình thật sự đối với chính quyền tha hóa, nhưng họ bị các nhóm cánh hữu cũng như sự cổ vũ của Hoa Kỳ và đồng minh đẩy đi xa, và ủng hộ việc bài Nga cũng như nhanh chóng thay đổi chính quyền. Họ đã gia tăng mức độ bạo lực. Xạ thủ giết hại cảnh sát và người biểu tình ở Maidan vào ngày 21 tháng 2 năm 2014, đã đẩy cuộc khủng hoảng tới thái cực mới. Bạo lực bùng phát đã phá hủy giải pháp được đàm phán dưới sự trung gian của các thành viên EU với hy vọng chấm dứt bạo lực, thiết lập chính phủ lâm thời và tiến hành bầu cử vào tháng 12. Bạo lực gia tăng đã chấm dứt kế hoạch chuyển tiếp, sau đó là một cuộc đảo chính cùng với sự trốn chạy của Victor Yanukovich.
Có bằng chứng đáng tin cậy về việc xạ thủ bắn vào cả người biểu tình lẫn cảnh sát là một chiến dịch đổ vạ xuất phát một bộ phận người biểu tình, chiến dịch đã rất hiệu quả, bạo lực của “chính quyền” là một trong những lý do Yanukovich bị lật đổ. Đáng chú ý nhất là thông điệp điện thoại bị tiết lộ giữa ngoại trưởng Estonia Urmas Paet và giám đốc đối chính sách đối ngoại EU Catherine Upton, trong đó Paet tường thuật một cách rõ ràng về bằng chứng cho thấy các phát đạn giết chết cả cảnh sát lẫn người biểu tình được bắn đi từ khu vực của người biểu tình. Sự kiện này hoàn toàn bị MSM bỏ qua. Ví dụ, tờ New York Times không bao giờ đề cập tới điều đó trong suốt hai tháng tiếp theo. Rất đáng ngạc nhiên là những người biểu tình ở Maidan không bao giờ bị MSM gọi là “chiến binh”, mặc dù đa số và bộ phận tích cực nhất được vũ trang và hung tợn – trong khi khái niệm đó lại được dùng để chỉ những người biểu tình ở miền đông Ukraina, những người được coi là “thân Nga” cũng như chiến binh (xin xem chi tiết hơn trong bảng tại Herman and Peterson, “The Ukraine Crisis and the Propaganda System in Overdrive,” in Stephen Lendman, ed,, Flashpoint in Ukraine). Có mọi lý do để tin rằng cuộc đảo chính và hoạt động của cánh hữu cũng như chính phủ bài Nga được quan chức Hoa Kỳ khích lệ và ủng hộ tích cực.
Câu nói “Đ.m. EU” bị tiết lộ của Victoria Nuland cho thấy sự thù địch của bà ta đối với nhóm mặc dù quy phục và quỵ lụy nhưng đã đi lạc hướng khỏi kế hoạch tân bảo thủ với một chính phủ thích hợp ở Kiev dưới sự lãnh đạo của những người như “Yats”. Mặc dù vậy bà ta đã được hài lòng khi kế hoạch chuyển tiếp do EU hậu thuẫn bị kết liễu bằng bạo lực và đảo chính. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với chính phủ đảo chính là rất nhiệt tình và không hạn chế. Trong khi Kery và cộng sự trì hoãn công nhận chính quyền dân cử của Maduro ở Venezuela và mạnh mẽ thúc giục ông ấy đối thoại cũng như đàm phán với những người biểu tình Venezuela – trên thực tế là đe dọa nếu ông ấy không làm – Kerry và cộng sự đã không làm điều tương tự ở Ukraina khi quân đội của chính phủ Kiev từng bước mở rộng quy mô tấn công vào miền đông Ukraina, không phải vào “người biểu tình”, mà là vào “các chiến binh”.
Quân đội của chính quyền Kiev hiện đang sử dụng các chiến đấu cơ phản lực và máy bay trực thăng ném bom miền đông, sử dụng pháo hạng nặng và súng cối trong các chiến dịch bộ binh. Mục tiêu của họ bao gồm cả bệnh viện và trường học. Vào ngày 8 tháng 6, thiệt hại thường dân đã lên đến hàng trăm. Một vụ thảm sát 40 hoặc hơn những người biểu tình thân Nga ở Odessa vào ngày 2 tháng 5 được tổ chức hoàn hảo bởi những cán binh tân phát xít, cũng có thể là các nhân viên của chính quyền Kiev, là đỉnh điểm của chiến dịch bình định. Chính quyền Kiev cũng như “cộng đồng quốc tế” đã không có cuộc điều tra về vụ tấn công, và sự ủng hộ của phương Tây đối với chính quyền Kiev cũng không bị ảnh hưởng chút nào. Đồng thời MSM cũng rất ít quan tâm tới tin tức đó (Tờ New York Times chôn vùi sự kiện đó trên trang sau với sự tiếp tục câu chuyện về “Đụng độ chết chóc xảy ra ở Ukraina”, ngày 5 tháng 5, che dấu xác thực về những kẻ sát nhân). Kerry đã im lặng, mặc dù chúng ta có thể tưởng tượng ra sự phẫn nộ của ông ta nếu các nhân viên của Maduro thực hiện hành động tương tự ở Venezuela. Điều này gợi nhớ đến “vụ thảm sát Racak”, có 40 người chết được khẳng định là nạn nhân của quân đội Serb đã tạo ra sự phẫn nộ quốc tế. Nhưng đó là trong trường hợp Hoa Kỳ cần một cái cớ cho chiến tranh, còn trường hợp Odessa thì chỉ là một cuộc chiến bình định được tay sai của Hoa Kỳ tiến hành, thế nên MSM cần phải im lặng theo mệnh lệnh.
Một trong những đặc trưng thú vị trong việc đưa tin của truyền thông về cuộc khủng hoảng ở Ukraina là sự tập trung thường xuyên vào cáo buộc hay khả năng Nga tham gia viện trợ, kiểm soát và can dự vào các hoạt động của người biểu tình/chiến binh/người nổi loạn ở miền đông Ukraina. Đây là bằng chứng về sự chấp nhận có tính lừa dối của tờ Times trong việc khẳng định rằng những bức ảnh về người nổi loạn có một người Nga được chụp ở Nga, sau đó được thừa nhận là có vấn đề (Andrew Higgins, Michael Gordon, and Andrew Kramer, “Photos Link Masked Men in East Ukraine to Russia,” NYT, 20.4.2014) cũng như bài báo hàng đầu khác, hoàn toàn chỉ là sự suy đoán (Sabrina Tavernise, “In Ukraine Kremlin Leaves No Fingerprints,” NYT, 1.6.2014). Nhưng điều thú vị là việc đưa tin bừa bãi về vấn đề Ukraina, với sự cố ý làm sai lệch, lại không tiếp tục với các bằng chứng về viện trợ và sự kiểm soát của Hoa Kỳ và NATO. Chuyến viếng thăm của Biden, Cain, Nuland và các nhân vật tình báo cũng như Lầu Năm Góc được đề cập đôi lần, nhưng với phạm vi và tính chất như hỗ trợ và cố vấn, “dấu vết” của Hoa Kỳ không được thảo luận và dường như không đáng quan tâm. Trong thực tế là được bình thường hóa như kế hoạch cứu trợ mà đề xuất của Nga là “dùi cui” còn kế hoạch của Hoa Kỳ và EU là “xây dựng và có lý”, tiêu chuẩn kép đã có tác dụng rõ ràng.
Có nguy cơ là Nga sẽ tham chiến để bảo vệ đa số thân Nga ở miền đông Ukraina đang bị tấn công? Có khả năng, nhưng không hoàn toàn như vậy, khi Putin nhận ra rằng đám đông tổ hợp công nghiệp-quân sự-tân bảo thủ-Obama sẽ chào mừng điều đó và sẽ sử dụng nó, ở mức độ tối thiểu, là công cụ để tiếp tục chia rẽ Nga với các chính quyền Châu Âu, tiếp tục quân sự hóa các tay sai và đồng minh của Hoa Kỳ, củng cố sự chỉ huy của MIC đối với ngân sách quốc gia Hoa Kỳ. Tất nhiên lực lượng quan trọng tại quốc gia này mong muốn được chứng kiến một cuộc chiến tranh với Nga và đáng chú ý là sự phổ biến của những bình luận, phê phán và phủ nhận chính trị về sự phản ứng yếu đuối của Obama đối với “sự xâm lược” của Nga (e.g., David Sanger, “Obama Policy Is put to Test: Global Crises Challenge a Strategy of Caution,” NYT, 17.3.2014). Nhưng rõ ràng là Putin vẫn chưa cắn câu.
Đáp lại sức ép từ các thể chế đầy quyền lực hiếu chiến và gây chiến Hoa Kỳ, Obama đã mạo hiểm lên án Nga và nhanh chóng loại Nga ra khỏi nhóm G-8, áp đặt trừng phạt đối với quốc gia bất lương, gia tăng quân đội và thúc đẩy viện trợ quân sự cho các quốc gia gần với Nga dựa trên cáo buộc về sự đe dọa của Nga, triển khai huấn luyện và tập trận quân sự với các đồng minh và tay sai đó, đảm bảo với họ về tính thiêng liêng trong những đóng góp của chúng ta đối với với an ninh của họ, thúc đẩy các quốc gia và các đồng minh chủ yếu gia tăng ngân sách quân sự. Có một điều mà ông ta vẫn chưa làm là kiềm chế các tay sai ở Kiev trong việc xử lý những người nổi dậy ở miền đông. Một điều khác là lôi kéo Putin vào việc tạo dựng một giải pháp. Putin đã nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự hợp hiến của một liên bang Ukraina mà trong đó Ukraina chấp nhận sự tự trị của các tỉnh miền đông. Đã có hội nghị Geneva và tuyên bố chung vào ngày 17 tháng 4, trong đó tất cả các bên cam kết giảm xung đột, tước vũ khí những lực lượng phi chính quy và cải cách hiến pháp, nhưng điều đó là chưa đủ mạnh, không có cơ chế áp thực thi và không có hiệu lực. Điều kiện quan trọng nhất trong việc giảm xung đột là chấm dứt chương trình bình định của Kiev ở miền đông Ukraina. Điều đó đã không diễn ra, bởi vì Obama không muốn nó diễn ra. Trên thực tế, ông ta cho rằng tình hình phụ thuộc vào việc Nga kiềm chế những người ly khai ở miền đông Ukraina và ông ta đã buộc các con rối G-7 phải đồng ý đưa ra thời hạn một tháng để Nga làm điều đó hoặc phải đối mặt với nhiều sự trừng phạt hơn.
Tình huống này gợi nhớ đến phân tích của Gareth Porter về “những hiểm họa của địa vị thống trị”, trong đó ông ấy lập luận rằng cuộc chiến Việt Nam đã nổ ra và trở nên rất lớn bởi vì các quan chức Hoa Kỳ nghĩ rằng ưu thế vượt trội về quân đội của họ sẽ buộc Bắc Việt Nam đồng minh ở miền nam phải đầu hàng và chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ – quan trọng nhất là miền nam Việt Nam do Hoa Kỳ kiểm soát – khi quân sự leo thang và người Việt Nam phải chịu đựng thiệt hại gia tăng (Perils of Dominance: Imbalance of Power and the Road to War in Vietnam). Điều đó đã không có tác dụng. Trong bối cảnh Ukraina, Hoa Kỳ lại một lần nữa có ưu thế vượt trội về quân sự. Bằng lực lượng của bản thân và qua cánh tay NATO, họ đã bao vây Nga với các vệ tinh được tạo dựng bằng cách vi phạm lời hứa của James Baker và Hans-Dietrich Genscher đối với Mikhail Gorbachev rằng sẽ không tiến về phía đông “một inch” nào nữa, họ đã đặt hệ thống phòng thủ tên lửa ngay cạnh biên giới Nga. Giờ đây họ đã dàn xếp cuộc đảo chính ở Ukraina để dựng lên một chính quyền công khai thù địch với Nga, đe dọa cả người Ukraina nói tiếng Nga cũng như sự kiểm soát căn cứ hải quân chủ chốt của Nga ở Crimea. Hành động sáp nhập Crimea trở lại Nga của Putin là không thể tránh khỏi để tự vệ trước những nguy cơ nghiêm trọng đối với an ninh của Nga. Điều đó có thể làm chính quyền Obama bất ngờ, cũng như người Việt Nam từ chối đầu hàng đã làm chính quyền Johnson bất ngờ. Tiếp tục áp bức Việt Nam bằng leo thang quân sự đã không có tác dụng, mặc dù việc đó đã giết hại và làm bị thương hàng triệu người và chặn đứng con đường phát triển của người Việt Nam. Tiếp tục và mở rộng các hoạt động chống Nga trong năm 2014 có thể có những nguy cơ nghiêm trọng đối với những kẻ xâm lược thực sự và thế giới, nhưng lại có lợi ích rõ ràng đối với Lockheed và các thành viên khác của MIC.
© Cu Nỡm
😍😍Nếu bạn thấy nội dung này có giá trị, hãy mời bần đạo một ly cà phê nhé!😍😍